Wednesday, December 25, 2013

Của thừa kế -- V.Woolf




CỦA THỪA KẾ
Virginia Woolf (1882-1941)
(Đã dịch và đăng trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 35-2002)


“Tặng Sissy Miller.” Gilbert Clandon, cầm chiếc ghim hoa ngọc trai ấy lên. Nó nằm giữa đống nhẫn và trâm cài vất bừa bãi trên bàn trang điểm nhỏ của vợ ông đặt ở phòng khách. Ông đọc thấy dòng chữ: “Tặng Sissy Miller, cùng tình yêu của tôi.”
Như thể Angela đã nhớ đến cả cô thư ký Miller của bà. Mà thật lạ, Gilbert Clandon nghĩ lại, sao bà ấy có thể để lại mọi thứ theo thứ tự được – tặng cho bất kỳ người bạn nào của bà một món quà nào đó. Như thể bà đã biết trước cái chết. Nhưng bà rất khỏe mạnh lúc rời nhà sáng hôm ấy, cách đây 6 tuần; lúc bà bước khỏi vỉa hè quảng trường Piccadilly và bị chiếc xe đụng phải.
Ông chờ cô Miller. Ông đã kêu cô đến; ông cảm thấy mình nợ cô sau từng ấy năm cô ở cạnh ông bà, một biểu hiện quan tâm. Đúng, ông nghĩ tiếp, thật lạ là Angela đã để lại mọi thứ theo thứ tự như thế. Mỗi người bạn được tặng một vật nhỏ biểu hiện tình cảm của bà. Mỗi chiếc nhẫn, vòng cổ, hộp Trung Quốc nho nhỏ – bà rất mê những chiếc hộp nhỏ – đều có một cái tên bên trên. Mà mỗi thứ đó đều gợi lên kỷ niệm trong ông. Cái này ông đã tặng bà; một con cá heo men sứ mắt bằng hồng ngọc – bà đã vồ lấy nó trên con phố thành Venice. Ông còn nhớ tiếng kêu nho nhỏ vui sướng của bà. Ông dĩ nhiên không được thừa kế món gì đặc biệt, ngoại trừ cuốn nhật ký. Một cuốn sách nhỏ có 15 phần, bìa bọc da màu xanh, đặt trước mặt ông trên bàn viết. Từ ngày họ lấy nhau, bà đã giữ cuốn nhật ký. Có một số chuyện – ông không nên gọi là cãi vã, đơn giản chỉ là chút xích mích – về cuốn sổ nhật ký này. Khi ông vào, bắt gặp bà đang viết, thì bà luôn đóng sập cuốn sổ lại và đặt tay lên. “Không, không, không” ông còn nhớ bà nói. “Có lẽ, chỉ sau khi em chết.” Thế là bà để lại nó cho ông, như của thừa kế. Nó là vật duy nhất hai người không chia sẻ khi bà còn sống. Nhưng ông vẫn cho rằng bà hẳn phải sống lâu hơn ông. Giá mà bà có thể dừng lại chỉ một giây, nghĩ về điều mình đang làm, chắc giờ bà vẫn còn sống. Nhưng bà đã bước ngay xuống vỉa hè, người tài xế khai lúc thẩm tra. Bà không cho anh ta cơ hội nào để kéo cần …… Tiếng nói tại toà vang lên làm gián đoạn dòng suy nghĩ của ông.
“Thưa ông, cô Miller,” người hầu gái thưa.
Cô bước vào. Ông chưa từng thấy cô một mình, và dĩ nhiên, lúc cô khóc. Cô rất buồn, cũng không có gì là ngạc nhiên. Angela đối đãi với cô còn hơn quan hệ chủ tớ. Cô đã là một người bạn. Đối với ông, ông nghĩ, khi ông đẩy ghế mời cô ngồi, cô là một người không khác những người cùng kiểu. Có hàng vạn cô Miller – những phụ nữ nhỏ nhắn buồn tẻ, mặc đồ đen, xách ca-táp. Nhưng Angela, với sự đồng cảm, đã nhìn ra những phẩm chất trong con người cô Miller. Cô có một tâm hồn kín đáo, rất lặng lẽ, đáng tin cậy, bất kỳ ai cũng có thể kể cho cô nghe điều gì. Đầu tiên cô Miller không nói. Cô ngồi đó chậm mắt bằng chiếc khăn tay. Rồi cô cố thốt lên.
“Xin thứ lỗi cho tôi, ông Clandon.” Ông lẩm bẩm. Dĩ nhiên là ông hiểu. Tự nhiên thôi. Ông đoán vợ mình có ý nghĩa như thế nào đối với cô.
“Tôi đã rất hạnh phúc ở nơi này,” cô nhìn quanh. Mắt cô dừng lại nơi chiếc bàn viết trước mặt ông. Nơi này họ đã từng làm việc – cô với Angela. Cô đã chia xẻ cùng Angela trách nhiệm đè nặng lên vai vợ của một chính trị gia lỗi lạc. Bà là sự giúp đỡ to lớn đối với ông trong nghề nghiệp của mình. Ông thường thấy bà và cô ngồi tại bàn này – cô gõ máy, đánh thành câu chữ những gì bà đọc lên. Chắc cô Miller cũng đang nghĩ thế. Giờ việc của ông là trao chiếc ghim hoa bà để lại cho cô. Dường như món quà không hợp. Lẽ ra nên để lại cho cô ta một món tiền, hay cái máy đánh chữ. Nhưng nó nằm đấy – với dòng chữ “Tặng Sissy Miller, cùng tình yêu của tôi.” Đưa cho cô chiếc ghim hoa, ông nói vài điều đã chuẩn bị trước. Rằng ông biết là cô sẽ trân trọng nó. Bà thường đeo nó … Cô trả lời, dường như cũng chuẩn bị trước, rằng nó luôn là vật quý giá cần gìn giữ… Cô ta có, ông nghĩ, nhiều quần áo mà chiếc ghim hoa này cài lên không hợp lắm. Cô đang mặc một bộ áo váy đen nhỏ, hình như là đồng phục nghề nghiệp của cô. Rồi ông nhớ là – cô đang buồn, dĩ nhiên. Cô ta cũng gặp một bi kịch – anh trai cô, người mà cô hết lòng yêu mến, đã chết chỉ một hai tuần trước Angela. Hình như trong một tai nạn? Ông không nhớ – Angela chỉ kể cho ông nghe. Angela, với sự thông cảm của mình, đã rất buồn. Lúc này cô Miller đứng dậy. Cô mang găng tay vào. Rõ là cô thấy không nên làm phiền nữa. Nhưng ông không thể để cô đi mà không nói gì về tương lai cô. Cô có kế hoạch gì? Ông có thể giúp gì cho cô không?
Cô nhìn chằm chằm vào chiếc bàn, nơi lúc trước đặt cái máy đánh chữ, giờ là chỗ quyển nhật ký nằm. Chìm trong ký ức về Angela, cô không trả lời đề nghị giúp đỡ của ông ngay. Dường như trong phút chốc cô có vẻ không hiểu. Vì thế ông nhắc lại:
“Cô có kế hoạch gì không, cô Miller?” “Kế hoạch của tôi? Ồ, được mà, ông Clandon,” cô trả lời. “Đừng phiền lòng vì tôi.”
Ông nghĩ ý cô là cô không cần sự giúp đỡ về tài chính. Thế tốt hơn, ông nghĩ, còn hơn là một đề nghị viết trong thư. Tất cả những gì ông có thể làm lúc này là nắm chặt tay cô, “Hãy nhớ, cô Miller, nếu cô cần bất cứ điều gì trong khả năng tôi có thể giúp, tôi sẽ rất hân hạnh …” Rồi ông mở cửa. Lúc tại ngưỡng cửa, hình như nhớ ra điều gì, cô dừng lại. “Ông Clandon,” cô nói, lần đầu tiên nhìn thẳng vào ông, và lần đầu tiên ông nhận thấy vẻ thông cảm, dù là dò xét trong mắt cô. “Bất cứ lúc nào,” cô nói tiếp, “có điều gì tôi có thể giúp ông, hãy nhớ là, vì vợ ông, tôi rất vui lòng …”
Rồi cô quay đi. Lời nói và cái nhìn của cô thật bất ngờ. Dường như cô tin, hay hi vọng là ông cần cô. Một ý tưởng điên rồ, tò mò nảy ra trong óc ông khi quay vào phòng. Có thể nào, trong suốt từng ấy năm trong khi ông không thèm để ý đến cô, thì cô, như các tiểu thuyết gia thường nói, đã ấp ủ một mối tình si với ông? Ông nhìn lại mình khi đi ngang chiếc gương. Ông đã hơn 50 tuổi; nhưng phải thú nhận rằng nhìn vào gương, ông vẫn còn rất điển trai.
“Tội nghiệp Sissy Miller!,” ông vừa cười vừa nói. Giá mà ông nói chuyện buồn cười này với bà nhỉ! Ông theo bản năng quay trở lại với cuốn nhật ký. “Gilbert,” ông lật bừa một trang “nhìn thật tuyệt…” Như thể bà trả lời ông vậy. Dĩ nhiên là Sissy Miller cũng thấy thế. Ông đọc tiếp. “Mình thật tự hào được làm vợ anh ấy!” Ông cũng luôn tự hào được làm chồng bà. Biết bao lần đi đâu đó ăn ngoài, ông nhìn bà và tự nhủ, “Cô ấy là người phụ nữ đáng yêu nhất ở đây!” Ông đọc tiếp. Năm đó ông tranh cử vào Quốc hội. Ông nói chuyện trước cử tri. “Khi Gilbert ngồi xuống, tiếng vỗ tay vang dội. Toàn thể cử toạ đứng dậy hát bài: ‘Anh là một người tốt bụng, vui tính’. Mình ngây ngất.” Ông cũng nhớ hôm đấy. Bà ngồi bên cạnh ông. Ông vẫn còn nhớ cái nhìn, và đôi mắt ngấn lệ của bà. Sau đó? Ông lật mấy trang. Họ đi Venice. Ông nhớ lại ngày nghỉ hạnh phúc sau cuộc bầu cử ấy. “Chúng tôi đi ăn kem ở Florians.” Ông cười – bà ấy cứ như trẻ con, vẫn còn thích kem. “Gilbert kể cho mình nghe phần lịch sử thú vị của thành Venice. Anh ấy kể rằng nhà Doge…” bà viết những dòng chữ với bàn tay của một cô học sinh. Một trong những niềm vui của Angela trong chuyến đi ấy là bà rất háo hức học hỏi. Mình rất dốt, bà thường nói thế, như thể đó không phải là một trong những nét dễ thương của bà vậy. Rồi – ông lật sang phần kế tiếp – họ đã trở về Luân Đôn. “Mình rất hồi hộp làm sao tạo một ấn tượng tốt. Mình mặc áo cưới.” Ông có thể thấy bà ngồi cạnh Sir Edward già; và đã chinh phục được tình cảm của ông cụ, thủ trưởng của ông. Ông đọc nhanh, từng hình ảnh một lướt qua trước mắt ông từ những mẩu văn rời rạc của bà. “Ăn tối tại Hạ nghị viện … Đến dự buổi tối ở Lovegrovers. Mình có nhận ra trách nhiệm của mình khi là vợ Gilbert, Lady L. đã hỏi mình” Rồi năm tháng trôi qua – ông lấy phần tiếp theo trên bàn – ông ngày càng đắm mình trong công việc. Và bà, dĩ nhiên, ở nhà nhiều hơn … Đó hẳn là một nỗi sầu khổ khi họ không có con. “Mình ước ao,” một mục viết, “giá mà Gilbert có một đứa con trai!” Kỳ lạ là ông đã chẳng bao giờ hối tiếc về chuyện này cả. Cuộc sống đã quá đủ đầy như bản thân nó thế rồi. Năm đó ông được bổ nhiệm vào một vị trí thứ yếu trong chính phủ. Chỉ là một vị trí thứ yếu, nhưng bà viết: “Mình chắc ảnh sẽ là Thủ tướng!” Ừ, nếu mọi việc khác đi, thì có lẽ đã thế rồi. Ông ngừng lại ngẫm nghĩ về những gì lẽ ra đã xảy ra. Chính trị như một ván cờ, ông nhớ lại; nhưng trò chơi chưa kết thúc. Chưa phải lúc 50 tuổi này. Ông lướt mắt nhanh lên các trang khác, đầy những chuyện lặt vặt, những chuyện hằng ngày, tầm thường, vui vẻ lấp đầy cuộc sống của bà.
Ông lấy một phần khác, lật đại ra xem. “Mình thật hèn nhát! Mình đã để cơ hội vuột mất. Nhưng thật là ích kỷ nếu làm phiền anh ấy bằng những chuyện của mình, khi mà anh có quá nhiều điều phải suy nghĩ rồi. Bọn mình ít khi có một buổi tối bên ngoài.” Nghĩa là sao? À, có lời giải thích đây – nó liên quan đến việc của bà ở khu East End. “Cuối cùng mình thu hết can đảm nói chuyện với Gilbert. Anh ấy thật tốt. Anh không ngăn cản gì cả.” Ông nhớ lại cuộc nói chuyện ấy. Bà nói bà thật nhàn tản, thật vô dụng. Bà muốn có công việc gì đó của riêng mình. Bà muốn làm gì đó – bà đã xấu hổ trông rất xinh, ông nhớ lại, khi ngồi nói về nó – làm gì đó giúp đỡ những người khác. Ông đã đùa bà một tí. Bộ bà không đủ bận rộn với việc chăm sóc ông, chăm sóc ngôi nhà này hay sao? Nhưng, nếu để bà vui, lẽ dĩ nhiên ông không ngăn cản. Nó là cái gì thế? Một quận? Một uỷ ban nào đó? Bà chỉ phải hứa là cố đừng bị bệnh. Rồi hình như cứ đến thứ tư hằng tuần bà đến Whitechapel ở khu East End. Ông nhớ là ông đã thấy ghét mấy bộ quần áo bà mặc mỗi dịp ấy đến thế nào. Nhưng hình như bà rất nghiêm túc về chuyện này. Quyển nhật ký đầy đặc những chuyện như: “gặp bà Jones …bà có 10 đứa con … chồng mất đi cánh tay trong một tai nạn … mình cố hết sức tìm việc cho Lily.” Ông bỏ qua. Tên ông xuất hiện thưa dần. Ông mất dần hứng thú. Một số mục chẳng có ý nghĩa gì với ông. Ví dụ: “Có cuộc tranh luận về chủ nghĩa xã hội với B.M.” Ai là B.M? Ông không thể nghĩ ra tên của ai, chắc tên một phụ nữ mà bà gặp ở một ủy ban. “B.M lớn tiếng chống lại tầng lớp thượng lưu … Sau cuộc họp, mình cùng B.M đi bộ về nhà, và cố thuyết phục anh ta. Nhưng anh ta quá cứng đầu.” Vậy ra B.M là một người đàn ông – không nghi ngờ gì nữa, đây là một “trí thức”, như bọn họ tự xưng, người như Angela nói, quá là cứng đầu và khích động. Chắc là bà đã mời anh ta đến gặp mặt. “B.M đến ăn tối. Anh bắt tay với Minnie!” Câu này làm ông cố lục lọi trong đầu. B.M dường như không quen với hầu bàn nữ; anh ta đã bắt tay với Minnie. Có lẽ hắn là một trong những công nhân bị thuần phục chuyên đưa ra chính kiến của mình trong phòng khách của các quý bà. Gilbert biết bọn này, và không mảy may thích một mẫu người như thế, cho dù B.M là ai đi nữa. Lại hắn. “Đi chung với B.M đến tháp Luân Đôn … Anh nói cách mạng đang đến gần … Anh nói chúng ta đang sống trong một thiên đường lừa bịp.” Đấy chỉ là điều mà B.M nói – Gilbert có thể nghe thấy tiếng hắn. Ông cũng nhìn thấy rõ hắn – một thằng nhỏ thó, lùn xủn, râu ria lởm chởm, thắt cà vạt đỏ, chuyên mặc đồ tuýt như những đứa khác, những đứa chưa có lấy một ngày thực sự làm việc cật lực trong đời. Chắc Angela thấy gì ở hắn? Ông đọc tiếp. “B.M nói những chuyện không thể đồng tình về …” Cái tên được cẩn thận gạch bỏ. “Tôi nói với anh là tôi không thèm nghe những điều xỉ vả về …” Cái tên lại bị xoá. Có phải là tên ông không? Có phải đó là lý do tại sao Angela che đi trang này khi ông bước vào? Suy nghĩ này càng làm ông thấy ghét tên B.M. Hắn thật là xấc láo đã nói chuyện về ông trong căn phòng này. Tại sao Angela không bao giờ kể với ông? Thật không giống bà tí nào khi giấu giếm bất kỳ chuyện gì; bà có một tâm hồn trung thực. Ông lật sang trang, lựa ra những mục có cái tên B.M. “B.M kể cho tôi nghe về thời niên thiếu. Mẹ anh phụ việc nhà … Khi nghĩ về điều đó, tôi không thể chịu đựng cuộc sống xa hoa của mình … Ba ghi-nê một chiếc nón!” Giá mà bà nói chuyện này với ông, thay vì làm khổ cái đầu mình bằng những câu hỏi quá khó đến độ không hiểu được! Ông đã cho bà mượn sách. Karl Max, cách mạng đang đến. Cái tên B.M, B.M, B.M lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng tại sao không phải là một cái tên đầy đủ. Có cái gì thân thiện, gần gũi trong cách dùng hai chữ viết tắt này, không giống Angela tí nào. Bình thường bà có gọi hắn bằng cái tên B.M không? Ông đọc tiếp. “B.M bất ngờ đến sau bữa tối. May quá, tôi chỉ có một mình.” Đó chỉ mới một năm trước. “May quá” – tại sao lại may quá? – “tôi chỉ có một mình.” Ông ở đâu tối đó? Ông xem lại sổ làm việc của mình. Đó là buổi tối trước hôm dùng bữa ở nhà thị trưởng. Vậy là B.M và Angela đã ở một mình buổi tối hôm đó! Ông cố nhớ lại buổi tối. Bà có chờ ông về không? Căn phòng có gọn gàng như lúc bình thường không? Có cái ly nào trên bàn không? Ghế có kê gần nhau không? Ông chẳng thể nhớ điều gì – bất cứ điều gì, trừ bài diễn văn của ông tại nhà thị trưởng. Càng lúc nó càng không thể giải thích được – toàn bộ tình huống đó: vợ ông đón một người đàn ông không quen biết lúc ở nhà một mình. Chắc phần tiếp theo sẽ giải thích. Vội vàng ông với lấy phần cuối của quyển nhật ký – phần duy nhất bà chưa viết xong khi mất. Đây, ngay trang đầu, lại gã đàn ông đáng nguyền rủa đó. “Ăn tối một mình với B.M… Anh trở nên giận dữ. Anh nói đã đến lúc chúng tôi hiểu nhau… Tôi cố làm anh hiểu. Nhưng anh không nghe. Anh dọa rằng nếu tôi không …” phần còn lại của trang giấy bị ghi đè lên. Bà viết “Ai Cập, Ai Cập, Ai Cập” lên đầy trang. Ông không đọc ra chữ nào, nhưng có thể suy ra được: thằng đểu này đã hỏi cưới bà. Một mình trong phòng hắn! Máu dồn lên mặt Gilbert. Ông lật vội trang. Bà đã trả lời thế nào? Tên viết tắt đã biến mất. Thay vào đó chỉ còn là “anh”. “Anh lại đến. Tôi nói mình không thể đi đến quyết định … Tôi van anh hãy bỏ tôi.” Hắn đã ôm lấy bà trong căn nhà này. Nhưng sao bà không nói cho ông biết? Sao bà có thể chần chờ dù chỉ một giây phút? Rồi: “Tôi viết thư cho anh.” Mấy trang để trắng. Rồi: “Không có thư trả lời.” Thêm nhiều trang để trắng. Rồi: “Anh đã làm điều anh dọa.” Sau đó, cái gì xảy ra sau đó? Ông lật tới tấp. Chỉ toàn giấy trắng. Nhưng đây, trước ngày bà mất, là câu: “Mình có can đảm làm thế không?” Gilbert Clandon để rơi cuốn sổ. Ông có thể thấy bà trước mặt. Bà đứng đó, trên vỉa hè quảng trường Piccadilly. Mắt nhìn trừng trừng, tay nắm chặt. Một chiếc xe lao đến …
Không thể chịu đựng được nữa. Phải biết sự thật. Ông nhào đến máy điện thoại.
“Cô Miller!” Im lặng. Ông nghe tiếng người di chuyển trong phòng. “Miller nghe đây” – cuối cùng tiếng cô cất lên. “Ai,” ông gầm lên, “là B.M?”
Ông có thể nghe tiếng chiếc đồng hồ rẻ tiền gõ trên lò sưởi phòng cô; rồi một tiếng thở dài buồn bã. Cuối cùng cô nói:
“Đó là anh tôi.”
Hắn là anh cô ta, người đã tự tử. “Có điều gì,” ông nghe tiếng cô Miller hỏi, “tôi có thể giải thích không?”
“Không!” ông hét lên. “Không!” Ông đã nhận được của thừa kế của bà. Bà đã kể cho ông nghe sự thật. Bà đã bước xuống vệ đường ấy để đến với người yêu. Bà đã bước xuống để thoát khỏi ông.

Sunday, December 22, 2013

Mình nói gì khi nói về tình yêu -- R.Carver




Mình nói gì khi nói về tình yêu

Raymond Carver (1981)

1  Bạn tôi Mel McGinnis đang nói. Mel McGinnis là bác sĩ tim mạch, nên thỉnh thoảng việc đó cho anh cái quyền được nói.
Bốn đứa chúng tôi đang ngồi quanh bàn bếp nhà anh, uống rượu gin. Ánh mặt trời chiếu ngập phòng bếp, từ cánh cửa sổ to phía dưới bồn rửa. Có Mel, tôi, vợ thứ của anh, Teresa – hay Teri, như chúng tôi thường gọi – và vợ tôi, Laura. Khi đó chúng tôi sống ở Albuquerque. Nhưng cả đám đều từ nơi khác tới.
Có một xô đá để ở trên bàn. Rượu và nước tonic được chuyền tay nhau, và bằng cách nào đó chúng tôi bàn về đề tài tình yêu. Mel nghĩ tình yêu đích thực không gì khác hơn là tình yêu tôn giáo. Anh bảo mình đã mất 5 năm ở trường dòng trước khi bỏ đó sang học y. Anh bảo mình vẫn coi những năm tháng ở trường dòng là năm tháng quan trọng nhất đời.
Terri bảo, gã mà cô sống chung trước khi sống với Mel yêu cô nhiều đến nỗi hắn cứ cố giết cô. Rồi Terri bảo, “Một tối anh ấy đánh em. Anh ấy nắm cổ chân em, kéo lê khắp phòng khách. Anh ấy cứ lải nhải, “Anh yêu em, anh yêu em, nỡm ạ.” Anh ấy cứ kéo lê em đi khắp phòng. Đầu em đập vào đủ thứ đồ.” Terri nhìn quanh bàn. “Mọi người làm gì với tình yêu như thế chứ?”
5  Cô là một phụ nữ nhỏ xương, mặt đẹp, mắt đen, tóc hung để thả xuống lưng. Cô thích mấy cái vòng cổ làm bằng ngọc lam, và đám hoa tai dài, lủng lẳng.
“Chúa ơi, đừng ngốc thế. Đó không phải tình yêu, em biết mà,” Mel nói. “Tớ không biết các cậu gọi nó là gì, nhưng tớ chắc các cậu không gọi đó là tình yêu đâu.”
“Anh thích nói gì thì nói, nhưng em biết đó là tình yêu,” Terri đáp. “Nó có thể điên khùng đối với anh, nhưng nó đúng là tình yêu. Người ta khác nhau cả, Mel à. Chắc hẳn, thỉnh thoảng anh ấy hành xử hơi hâm. Được thôi. Nhưng anh ấy yêu em. Có thể theo cách của anh ấy, anh ấy yêu em. Có tình yêu ở đấy, Mel ạ. Đừng bảo là không chứ.”
Mel thở hắt ra. Anh cầm ly của mình lên, quay sang Laura và tôi. “Thằng ấy dọa giết tớ đấy,” Mel bảo. Anh cạn ly của mình rồi giơ tay lấy chai rượu. “Terri là kẻ lãng mạn. Terri thuộc loại đánh-em-đi-để-em-biết-anh-yêu-em. Terri, em yêu, đừng nhìn theo kiểu đó chứ.” Mel vươn người qua bàn, chạm tay vào má Terri. Anh nhe răng cười với cô.
“Giờ anh ấy muốn bịa chuyện đấy,” Terri bảo.
10 “Bịa cái gì mới được chứ?” Mel hỏi. “Có cái gì để bịa đâu? Anh biết điều mình biết mà. Vậy thôi.”
“Sao bọn mình lại bắt đầu bàn về cái đề tài này nhỉ?” Terri hỏi. Cô nhấc ly của mình lên uống. “Mel luôn nghĩ tới tình yêu,” cô bảo, “phải không, anh yêu?” Cô cười, và tôi nghĩ chuyện đến đấy là xong.
“Anh sẽ không gọi hành vi của Ed là yêu. Đó là tất cả những gì anh nói, em yêu ạ,” Mel đáp lại. “Các cậu thì sao?” Mel hỏi Laura và tôi. “Chuyện ấy với các cậu nghe có giống yêu không?”
“Cậu hỏi sai người rồi,” tôi đáp. “Tớ có biết thằng cha ấy đâu. Tớ cũng chỉ nghe qua tên hắn. Tớ không biết. Cậu phải biết chi tiết cụ thể mới nói được. Nhưng tớ nghĩ cái cậu bảo là yêu là thứ tình tuyệt đối rồi.”
Mel đáp, “Đúng là thứ tình tớ nói tới đấy. Thứ tình tớ nói tới là thứ tình cậu không cố giết ai cả.”
15 Laura bảo, “Em không biết tí gì về Ed, hay tí gì về chuyện này. Nhưng ai có thể đánh giá chuyện của người khác cơ chứ?”
Tôi chạm vào mu bàn tay Laura. Nàng khẽ mỉm cười với tôi. Tôi cầm tay Laura lên. Nó ấm áp, móng được cắt tỉa hoàn hảo, sơn xiếc đàng hoàng. Tôi nắm lấy cổ tay đầy đặn của nàng, rồi cầm lấy tay nàng.
“Khi em bỏ đi, thì anh ấy uống thuốc chuột.” Terri bảo. Cô choàng tay ôm lấy mình. “Người ta đưa anh ấy tới bệnh viện ở Same Fe. Đó là nơi lúc ấy bọn em sống, cách nhà khoảng 10 dặm. Họ cứu sống anh ấy. Nhưng lợi anh ấy hỏng hết. Ý em là chúng rời khỏi răng ấy. Sau đó, răng anh ấy nhe ra y như răng nanh vậy. Chúa ơi,” Terri bảo. Cô đợi một phút rồi buông tay ra, cầm ly lên.
“Có gì mà người ta không làm đâu!” Laura nói.
“Giờ thì hắn hết cục cựa rồi,” Mel bảo. “Hắn chết rồi.”
20 Mel đưa tôi đĩa chanh. Tôi lấy một miếng, vắt nó vào ly mình, rồi dùng tay khuấy đá lên.
“Chuyện còn tệ hại hơn,” Terri kể. “Anh ấy tự bắn vào mồm. Nhưng cũng làm hỏng nốt. Thật tội nghiệp cho Ed,” cô bảo. Rồi lắc đầu.
“Tội nghiệp gì chứ,” Mel bảo. “Hắn là kẻ nguy hiểm.”
Mel bốn mươi lăm tuổi. Anh cao, tóc xoăn mềm. Mặt và tay có màu nâu do anh chơi tennis. Khi anh tỉnh táo, thì cử chỉ, động tác của anh rất chính xác, cẩn thận.
“Dù gì thì anh ấy cũng yêu em, Mel ạ. Công nhận điều đó đi,” Terri bảo. “Đó là tất cả những gì em cần. Anh ấy không yêu em theo cách anh yêu em. Em không nói thế. Nhưng anh ấy có yêu em. Anh có thể công nhận điều đó với em không?”
25 “Ý em là gì, khi bảo hắn cũng làm hỏng nốt?” tôi hỏi.
Laura nghiêng người về phía ly của mình. Cô chống cùi tay lên bàn và cầm ly bằng cả hai tay. Cô liếc nhìn Mel rồi Terri và chờ đợi với cái nhìn bối rối trên gương mặt cởi mở, như thể kinh ngạc trước chuyện như thế lại xảy ra với người mà bạn thân thiết.
“Sao hắn tự tử mà làm hỏng cơ chứ?” tôi hỏi.
“Tớ sẽ kể cho các cậu nghe chuyện gì đã xảy ra,” Mel bảo. “Hắn lấy khẩu 20 ly hắn mua ra để dọa Terri và tớ. Ừ, tớ nói nghiêm túc đấy. Thằng ấy lúc nào chả đe với dọa. Các cậu hẳn phải thấy bọn tớ sống hồi ấy như thế nào. Y như tội phạm trốn chui trốn lủi ấy. Tớ thậm chí còn tự đi mua một khẩu súng. Các cậu có tin nổi chuyện đó không? Một thằng như tớ ấy? Nhưng thật đấy, tớ mua một khẩu về để tự vệ và bỏ nó trong ngăn để găng tay. Thỉnh thoảng tớ phải rời nhà lúc nửa đêm. Để tới bệnh viện, các cậu biết đấy? Terri và tớ lúc đó chưa cưới, mà mụ vợ đầu của tớ thì có nhà, có bọn nhỏ, con chó, và tất cả mọi thứ, còn Terri và tớ thì sống ở đây trong căn hộ này. Thỉnh thoảng, như tớ nói rồi đó, tớ nhận được điện thoại lúc nửa đêm và phải đi tới bệnh viện lúc hai ba giờ sáng. Trong ga-ra tối hù, và tớ toát cả mồ hôi trước khi bước được vào xe. Tớ không biết liệu hắn có từ bụi cây hay sau cái xe nào đó nhào ra rồi nã đạn hay không. Ý tớ là, thằng đó điên mà. Hắn có thể cho nổ bom, bất cứ thứ gì ấy chứ. Hắn từng gọi tới chỗ tớ làm bất kể giờ giấc, bảo là cần nói chuyện với bác sĩ, rồi khi tớ trả lời điện thoại thì hắn bảo, ‘Thằng chó, mày chẳng còn sống được bao lâu đâu.’ Mấy thứ nhỏ nhặt vậy đấy. Sợ lắm, tớ bảo cho các cậu biết.”
“Em vẫn thấy tiếc cho anh ấy,” Terri nói.
30 “Nghe như ác mộng vậy,” Laura bảo. “Nhưng chính xác chuyện gì xảy ra sau khi hắn tự bắn mình?”
Laura là thư ký luật sư. Bọn tôi gặp nhau nhờ quan hệ nghề nghiệp. Còn trước đó, quan hệ chỉ ở mức tìm hiểu. Nàng 35, trẻ hơn tôi 3 tuổi. Ngoài yêu ra, chúng tôi còn thích nhau và thích ở bên nhau. Nàng là người rất dễ chịu.
“Chuyện gì đã xảy ra?” Laura hỏi.
Mel bảo, “Hắn bắn vào mồm trong phòng riêng. Ai đó nghe thấy tiếng nổ và bảo với bên quản lý. Họ vội dùng chìa khóa chủ mở cửa xông vào, thấy những gì đã xảy ra, bèn gọi xe cấp cứu. Tớ tình cờ ở đó khi họ mang hắn tới, còn sống nhưng bất tỉnh. Thằng ấy sống được ba ngày. Đầu hắn sưng to gấp đôi đầu người thường. Tớ chưa bao giờ thấy thứ gì như thế, và hi vọng mình sẽ không bao giờ thấy lại cảnh đó. Terri muốn vào trong, ngồi với hắn khi biết chuyện. Bọn tớ đã cãi nhau về việc ấy. Tớ không nghĩ cô ấy nên gặp hắn trong tình trạng như thế. Tớ không nghĩ cô ấy nên gặp, và giờ tớ vẫn không nghĩ thế.”
“Cãi nhau rồi ai thắng?” Laura hỏi.
35 “Em ở trong phòng với anh ấy khi anh ấy mất,” Terri bảo. “Anh ấy không bao giờ tỉnh lại. Nhưng em đã ngồi với anh ấy. Anh ấy chả còn ai.”
“Hắn nguy hiểm lắm,” Mel bảo. “Nếu em gọi đó là tình yêu, thì giữ lấy mà yêu.”
“Đó là tình yêu,” Terri bảo. “Chắc chắn nó bất thường trong mắt nhiều người. Nhưng anh ấy sẵn sàng chết vì nó. Anh ấy đã chết vì nó.”
“Anh chắc mẩm sẽ không gọi đó là tình yêu,” Mel bảo. “Ý anh là, không ai biết hắn làm thế để làm gì. Anh từng thấy rất nhiều vụ tự tử, và anh không thể nói với bất cứ ai mình biết là họ làm thế để làm gì.”
Mel đặt tay lên gáy và ngả người ra sau ghế. “Anh không quan tâm tới loại tình yêu đó,” anh bảo. “Nếu đó là tình yêu, thì giữ lấy mà yêu.”
40 Terri bảo, “Bọn em e là Mel còn soạn cả di chúc và viết thư cho em mình ở California, cái tay từng làm lính Mũ nồi xanh ấy. Mel bảo nó chăm lo mọi việc nếu có gì xảy ra với mình.”
Terri uống ly của mình. Cô bảo, “Nhưng Mel nói đúng – bọn em sống y như tội phạm chui lủi ấy. Bọn em sợ. Mel sợ, phải không anh yêu? Em thậm chí có lúc còn gọi cho cảnh sát, nhưng họ chả giúp được gì. Họ bảo không thể làm gì cho tới khi Ed thật sự gây ra chuyện gì đó. Nghe có buồn cười không?” Terry hỏi.
Cô rót nốt chỗ rượu cuối cùng vào ly mình và lắc lắc cái chai. Mel đứng lên, đi về phía tủ buýp-phê. Anh lấy ra chai nữa.
“Ờ, Nick và tớ biết tình yêu là gì,” Laura bảo. “Với bọn tớ, ý tớ là thế,” Laura nói. Nàng đụng đầu gối mình vào đầu gối tôi. “Giờ anh nói gì đó đi chứ,” Laura bảo, rồi quay sang mỉm cười với tôi.
Để trả lời, tôi cầm tay Laura và đặt nó lên môi. Tôi hôn tay nàng thật kêu. Mọi người đều cười phá ra.
45 “Bọn tớ may ấy mà,” tôi bảo.
“Anh chị á,” Terri bảo. “Thôi đi. Anh chị làm em buồn nôn. Anh chị vẫn hưởng trăng mật, vì Chúa đấy. Anh chị vẫn u u mê mê, chưa khóc rống lên. Cứ đợi đấy. Anh chị ở bên nhau bao lâu rồi? Sống với nhau bao lâu rồi? Một năm? Hơn một năm?”
“Năm rưỡi rồi,” Laura đáp, mặt đỏ ửng miệng mỉm cười.
“Ồ, thế thì,” Terri bảo. “Đợi chút nhé.”
Cô cầm lấy ly của mình, chằm chằm nhìn Laura.
50 “Em đùa đấy,” Terri bảo.
Mel mở chai rượu rồi cầm nó đi quanh bàn.
“Này, mọi người,” anh bảo. “Nâng ly nào. Tớ muốn mời mọi người cụng ly. Cụng ly vì tình yêu. Vì tình yêu đích thực,” Mel bảo.
Chúng tôi cụng ly.
“Vì tình yêu,” chúng tôi hô.

55 Ngoài sân sau, một con trong số đám chó bắt đầu sủa. Lá của cây bạch dương nghiêng qua cửa sổ loạt xoạt chạm vào kính. Mặt trời chiều như hiện diện trong phòng, thứ ánh sáng thoải mái, độ lượng lan tràn khắp nơi. Chúng tôi hẳn có thể ở bất cứ đâu, nơi nào đó bị bỏ bùa mê. Chúng tôi lại nâng ly, nhăn nhở cười với nhau y như những đứa trẻ đồng ý về điều gì đấy bị cấm đoán.
“Tớ nói cho mọi người biết tình yêu đích thực là gì nhé,” Mel bảo. “Ý tớ là, tớ sẽ cho mọi người một ví dụ hay. Rồi mọi người tự rút ra kết luận.” Anh rót thêm rượu vào ly mình. Anh cho thêm vào đấy một viên đá và một lát chanh. Chúng tôi chờ đợi, nhấm nháp rượu của mình. Laura và tôi lại đụng đầu gối. Tôi đặt một tay lên chiếc đùi ấm áp của nàng và để yên ở đấy.
“Ai trong bọn mình thực sự biết gì về tình yêu nào?” Mel hỏi. “Với tớ hình như bọn mình chỉ là những kẻ tập tọe yêu. Bọn mình bảo yêu, thì đúng là yêu, tớ chẳng nghi ngờ gì về điều đó. Tớ yêu Terri, Terri yêu tớ, và hai cậu cũng yêu nhau. Các cậu biết kiểu tình yêu mà tớ đang nói tới. Tình yêu thể xác, cái xung lực đẩy cậu về phía ai đó đặc biệt, cũng như yêu mến sự tồn tại của kẻ khác, bản chất của chàng hay nàng ấy, như nó vốn thế. Tình yêu xác thịt và, ừ, cứ gọi nó là tình yêu cảm xúc đi, sự quan tâm hằng ngày tới kẻ khác. Nhưng thỉnh thoảng tớ gặp khó khăn trong việc giải thích sự thật là, tớ hẳn cũng đã yêu mụ vợ cả của mình. Tớ có yêu. Tớ biết mình có yêu cô ấy. Vậy nên tớ đồ rằng mình giống Terri ở điểm này. Terri và Ed ấy.” Anh nghĩ về điều đó rồi tiếp tục nói. “Có lúc tớ nghĩ mình yêu cô vợ đầu còn hơn cuộc sống ấy chứ. Nhưng giờ thì tớ thù cô ta. Các cậu giải thích chuyện này thế nào? Chuyện gì đã xảy ra với tình yêu đó? Chuyện gì đã xảy ra với nó, là điều tớ muốn biết. Tớ ước ai đó có thể nói cho tớ biết. Rồi Ed nữa. Ừ, ta quay lại với Ed nào. Hắn yêu Terri nhiều đến nỗi cố giết cô ấy rồi kết thúc bằng việc tự giết mình.” Mel ngừng nói và nuốt một ngụm rượu. “Các cậu đã ở bên nhau 18 tháng và các cậu yêu nhau. Nó hiện lên mặt các cậu. Các cậu tỏa ra điều đó. Nhưng hai cậu đều yêu người khác trước khi gặp nhau. Hai cậu từng kết hôn trước đó rồi, y như bọn tớ vậy. Và hai cậu trước đó cũng có thể đã yêu người khác rồi. Terri và tớ đã ở với nhau được năm năm, cưới nhau được bốn năm. Và điều tệ hại, điều tệ hại là, nhưng cũng là điều tốt lành, ơn huệ bù đắp, các cậu có thể bảo thế, là nếu có chuyện gì xảy ra với một trong hai đứa bọn tớ – xin lỗi đã nói thế – nhưng nếu ngày mai có chuyện gì xảy ra với một trong hai đứa bọn tớ, thì tớ nghĩ, người kia, người còn lại ấy, sẽ đau buồn một lúc, các cậu biết đấy, rồi người còn sống ấy sẽ lại đi ra ngoài, yêu tiếp, mau chóng có người khác thôi. Tất cả chuyện này, tất cả tình yêu mà bọn mình đang bàn luận này, nó sẽ chỉ là ký ức. Thậm chí cũng chả phải ký ức. Tớ nói sai à? Tớ tán bừa à? Vì tớ muốn các cậu chỉnh cho tớ nếu các cậu nghĩ tớ nói sai. Tớ muốn biết. Ý tớ là, tớ không biết gì hết, và tớ là người đầu tiên thú nhận điều này.”
“Mel, vì Chúa đấy,” Terri bảo. Cô vươn người tới, nắm lấy cổ tay chồng. “Anh say à? Anh yêu? Anh say à?”
“Em yêu, anh chỉ nói thôi.” Mel bảo. “Đúng không? Tớ không cứ phải say mới nói ra những gì mình nghĩ. Ý tớ là, ta chỉ nói thôi, đúng không?” Mel hỏi. Anh dán mắt vào vợ mình.
60 “Cưng ơi, em không bình luận gì đâu,” Terri bảo.
Cô cầm ly mình lên.
“Hôm nay tớ không trực,” Mel nói. “Để tớ nhắc các cậu về việc đó. Tớ không trực,” anh bảo.
“Mel, bọn em yêu anh mà,” Laura bảo.
Mel nhìn Laura. Anh nhìn cô như thể anh không nhớ ra cô, như thể cô không phải là mình.
65 “Anh cũng yêu em, Laura ạ,” Mel đáp. “Cả cậu nữa, Nick, tớ cũng yêu cậu luôn. Các cậu biết gì không?” Mel bảo. “Các cậu là bạn của bọn tớ,” Mel bảo. Anh cầm ly mình lên.
Mel nói, “Tớ sẽ kể cho các cậu nghe chuyện gì đó. Ý tớ là, tớ sắp chứng tỏ một điều. Các cậu thấy đó, chuyện này xảy ra vài tháng trước, nhưng giờ nó vẫn diễn ra, và nó khiến ta xấu hổ khi nói như thể, mình biết mình nói gì khi nói về tình yêu vậy.”
“Thôi nào,” Terri bảo. “Đừng nói như người say nếu anh không say đi.”
“Im miệng giùm anh, chỉ một lần trong đời,” Mel nói thật bình tĩnh, “Ừ em làm ơn im giùm anh, im một tẹo có được không? Như tớ nói đó, có đôi vợ chồng già bị đụng xe trên đường cao tốc liên bang. Một thằng nhóc tông phải họ, họ nát bét cả, và họ chả có mấy cơ hội để qua khỏi.”
70 Terri nhìn bọn tôi rồi nhìn sang Mel. Cô có vẻ lo lắng, hoặc là quá lo lắng.
Mel đưa chai rượu cho mọi người chuyền quanh bàn.
“Đêm đó tớ trực,” Mel bảo. “Là tháng Năm hay tháng Sáu gì đó. Terri và tớ mới ngồi vào bàn ăn tối thì bệnh viện gọi. Có chuyện xảy ra trên đường cao tốc liên bang. Thằng nhóc say, ủi luôn xe tải của bố nó vào cái xe đi cắm trại, bên trong có đôi vợ chồng già. Họ khoảng 75, 76 tuổi gì đó, đôi vợ chồng ấy đấy. Thằng nhóc – 18, 19 tuổi gì đó – chết trên đường tới viện. Bị tay lái xuyên qua xương ức. Đôi vợ chồng già, còn sống, các cậu hiểu không. Ý tớ là, thoi thóp thôi. Nhưng họ lãnh đủ. Đa chấn thương này, nội thương này, xuất huyết này, tụ huyết này, vết rách vết cắt này, đủ cả, mà mỗi người còn bị thương ở đầu nữa. Họ ở trong tình trạng tệ hại, tin tớ đi. Và, dĩ nhiên, tuổi tác chống lại họ. Tớ phải nói là bà ấy tệ hơn ông ấy nhiều. Dập lá lách cùng đủ các chấn thương khác. Hai xương bánh chè bị vỡ. Nhưng họ có thắt dây an toàn, và Chúa biết đấy, điều đó đã cứu sống họ.”
“Các bạn ơi, đây là quảng cáo cho Ban An toàn Quốc gia,” Terri bảo. “Đây là phát ngôn viên của các bạn, Bác sĩ Melvin R. McGinnis, đang nói.” Terri cười to. “Mel,” cô bảo, “thỉnh thoảng anh làm quá đấy. Nhưng em yêu anh, anh yêu ạ,” cô bảo.
“Em yêu, anh yêu em,” Mel đáp.
75 Anh nghiêng người qua bàn. Terri nghiêng tới gặp anh ở giữa. Họ hôn nhau.
“Terri nói đúng đấy,” Mel bảo sau khi ngồi ngay lại. “Thắt dây an toàn vào. Nhưng nghiêm túc thì, họ thuộc loại khỏe mạnh, hai ông bà già ấy đấy. Lúc tớ tới nơi, thì thằng nhóc toi rồi, như tớ nói rồi đó. Nó được đẩy vào một góc, trên cái xe cáng xếp. Tớ nhìn sang đôi vợ chồng già, rồi bảo cô y tá cấp cứu gọi ngay cho tớ một tay chuyên khoa thần kinh, một tay chuyên khoa chỉnh hình, và vài bác sĩ phẫu thuật.”
Anh uống ly của mình. “Tớ sẽ cố nói thật ngắn gọn,” anh bảo. “Vậy là bọn tớ mang họ đến phòng mổ, làm việc như điên gần hết đêm. Họ có sức lực dồi dào đến khó tin, cả hai người bọn họ ấy. Thi thoảng các cậu mới thấy một trường hợp như thế. Vậy là bọn tớ làm mọi thứ có thể, và tới sáng thì cho họ cơ hội 50-50, có thể ít hơn đối với bà ấy. Vậy là họ ở đó, sáng hôm sau vẫn sống nhăn răng. Rồi bọn tớ chuyển họ tới phòng chăm sóc đặc biệt, để họ ở đó với đám máy móc trong vòng hai tuần, rồi họ dần khá lên về mọi mặt. Thế là bọn tớ chuyển họ về phòng riêng.”
Mel ngừng nói. “Nào,” anh bảo, “mình uống nốt chỗ gin rẻ tiền này nhé. Rồi đi ăn tối, được không? Terri và tớ biết một quán mới. Đó là nơi bọn mình sẽ tới, tới nơi mới mà bọn tớ biết. Nhưng mình không đi được khi chưa cạn hết chỗ gin hạ giá, lởm khởm này.”
Terri bảo, “Bọn em thực ra chưa ăn ở chỗ ấy. Nhưng trông được lắm. Nhìn bên ngoài thôi, anh chị biết đấy.”
80 “Tớ thích đồ ăn,” Mel bảo. “Nếu làm lại từ đầu, tớ sẽ theo nghiệp bếp, các cậu biết không? Phải không nào, Terri?” Mel hỏi.
Anh cười to. Rồi lấy tay khuấy đá trong ly của mình.
“Terri biết đấy,” anh bảo. “Terri có thể kể cho các cậu nghe. Nhưng để tớ nói điều này. Nếu tớ có thể quay lại sống một cuộc sống khác, ở một thời đại khác, thì các cậu biết gì không? Tớ thích làm hiệp sĩ. Các cậu sẽ cực kỳ an toàn trong bộ áo giáp sắt. Làm hiệp sĩ rất ổn cho tới khi thuốc súng, hỏa mai, súng lục xuất hiện.”
“Mel sẽ cưỡi ngựa, cầm thương,” Terri bảo.
“Hoặc chỉ xách theo một cô nương,” Mel chêm vào.
85 “Nhục mặt chưa,” Laura bảo.
“Làm nông nô chả hay ho gì,” Mel bảo. “Nhưng tớ đoán hiệp sĩ cũng là đồ đựng cho ai đó. Chả phải thế sao? Nhưng thế thì mọi người đều là đồ đựng cho ai đó cả. Phải vậy không? Phải không Terri? Nhưng tớ thích đám hiệp sĩ, ngoài việc họ có mấy cô nương ra, thì họ có bộ giáp, các cậu biết đấy, và họ không dễ bị thương đâu. Các cậu biết đấy, hồi đó làm gì có xe hơi? Chả có thằng nhóc nào cày nát mông mình ra cả.”
“Đầy tớ,” Terri bảo.
90 “Gì cơ?” Mel hỏi lại.
“Đầy tớ,” Terri bảo. “Họ được gọi là đầy tớ, chứ không phải đồ đựng.”
“Đầy tớ, đồ đựng,” Mel bảo, “khác cái mẹ gì chứ? Dù sao em cũng hiểu ý anh mà. Được rồi,” Mel nói tiếp. “Ừ thì tôi không được học hành. Tôi học ba cái thứ vớ vẩn của mình, tôi là bác sĩ phẫu thuật tim, chắc luôn, nhưng chỉ là anh thợ mà thôi. Tôi xông bừa vào, khua khoắng nhặng xị, chỉnh sửa tùm lum. Mẹ kiếp,” Mel bảo.
“Khiêm tốn đâu có hợp với anh,” Terri bảo.
“Cậu ấy chỉ là thằng mổ xẻ quèn,” tôi bảo. “Nhưng Mel này, thỉnh thoảng họ cũng chết ngạt trong mớ áo giáp đấy. Họ thậm chí còn bị đau tim nếu trời nóng quá, hoặc lả đi nếu mệt quá. Tớ đọc đâu đó thấy là họ sẽ ngã xuống, không dậy nổi, vì mệt đến độ không đứng dậy được với mớ áo giáp mặc trên mình. Thỉnh thoảng họ còn bị chính ngựa của mình xéo lên nữa.”
“Thế thì tệ quá,” Mel bảo. “Một tên đầy tớ khác sẽ đến xiên cho thằng khốn ấy một thương nhân danh tình yêu. Hay vì thứ chết tiệt nào đó mà họ đấu đá nhau hồi ấy.”
“Những thứ tương tự mà vì chúng, bọn mình đấu đá nhau bây giờ.”
Laura bảo, “Chả có gì thay đổi cả.”
100 Má Laura ửng hồng. Mắt cô sáng rực. Cô cầm ly rượu đưa lên miệng.
Mel tự rót cho mình một ly nữa. Anh nhìn kỹ cái nhãn như thể đang xem một dãy số dài. Rồi anh chậm rãi đặt chai rượu xuống bàn, chậm rãi chìa tay ra lấy nước tonic.
“Còn đôi vợ chồng già thì sao?” Laura hỏi. “Anh chưa kể xong truyện mình khơi mào mà.”
Laura phải vất vả mới châm được thuốc hút. Diêm của cô cứ tắt hoài.
Ánh mặt trời trong phòng giờ khác hẳn, thay đổi, nhạt nhòa hơn. Nhưng đám lá bên ngoài cửa sổ vẫn lung linh, và tôi nhìn chằm chằm vào hoa văn mà chúng tạo ra trên tấm kính cửa và cái kệ bằng formica. Dĩ nhiên chúng có hoa văn khác nhau rồi.
105 “Còn đôi vợ chồng già thì sao?” Tôi hỏi.
“Già hơn nhưng khôn hơn,” Terri bảo.
Mel chằm chằm nhìn cô.
Terri bảo, “Tiếp tục chuyện của anh đi, anh yêu. Em chỉ đùa thôi. Rồi chuyện gì xảy ra?”
“Terri, thỉnh thoảng thôi nghe,” Mel bảo.
110 “Xin anh đấy, Mel,” Terri đáp. “Đừng có lúc nào cũng làm mặt nghiêm trọng thế, anh yêu. Bộ anh không đùa được sao?”
Anh cầm ly của mình lên và lừ lừ nhìn vợ.
“Chuyện gì xảy ra nào?” Laura hỏi.
Mel dán mắt vào Laura. Anh bảo, “Laura, nếu anh không có Terri và anh không yêu cô ấy nhiều đến thế, và nếu Nick không phải bạn thân nhất của anh, thì anh sẽ yêu em mất. Anh sẽ cuỗm em đi, cưng à,” anh nói.
115 “Kể chuyện của anh đi,” Terri bảo. “Rồi mình ra chỗ cái quán mới, được không?”
“Được,” Mel bảo. “Tớ kể đến đâu rồi?” anh hỏi. Anh nhìn chằm chằm vào cái bàn rồi bắt đầu nói lại.
“Ngày nào tớ cũng tới thăm từng người bọn họ, thỉnh thoảng còn thăm hai lần một ngày nếu tiện đường đến thăm luôn các ca khác. Bông băng bó bột, từ đầu tới chân, cả hai người bọn họ. Các cậu biết đấy, cảnh mà mọi người nhìn thấy trên phim ảnh ấy. Họ trông hệt như thế, hệt như trên phim ấy. Có mấy cái lỗ be bé ở mắt, mũi, miệng. Còn bà ấy thì chân cẳng treo ngược cả lên. Ờ, còn ông chồng thì rất buồn suốt một thời gian dài. Ngay cả khi biết vợ mình sẽ qua khỏi, ông ấy vẫn rất buồn. Dù sao cũng không phải về vụ tai nạn. Ý tớ là, tai nạn là một chuyện, nó không phải tất cả. Tớ ghé tai xuống lỗ mồm ông ta, các cậu biết đấy, và ông ta bảo, không, chính xác không phải là do tai nạn, mà là vì ông ấy không thể thấy bà ấy qua lỗ mắt của mình. Ông ấy bảo đó là điều làm ông ấy buồn, buồn lắm luôn. Các cậu có tưởng tượng nổi không? Tớ đang nói với các cậu đấy, là trái tim người đàn ông này tan vỡ vì ông ta không thể quay cái đầu chết tiệt của mình qua nhìn bà vợ chết tiệt của mình được.”
Mel nhìn quanh bàn, lắc đầu trước những gì mà mình sắp nói, “Ý tớ là, lão già cổ lỗ sĩ ấy đau lòng chỉ vì không thể nhìn thấy mụ vợ chết tiệt của mình.”
120 Chúng tôi đều nhìn Mel.
“Các cậu hiểu điều tớ nói chứ?” anh hỏi.
Có thể lúc ấy bọn tôi đã ngà ngà say. Tôi biết giữ cho mọi thứ được rõ ràng là khó lắm. Ánh sáng đã rút khỏi phòng, lùi về phía cửa sổ nơi nó tới. Song không ai thèm động đậy để đứng dậy bật đèn trần lên.
“Nghe này,” Mel bảo. “Mình làm nốt chỗ rượu gin chết tiệt này nhé. Chỗ này đủ cho tất cả chúng ta làm một lượt nữa đấy. Rồi mình đi ăn. Tới chỗ cái quán mới ấy.”
“Anh ấy rù rồi,” Terri bảo. “Mel, sao anh không đi lấy thuốc uống đi?”
125 Mel lắc đầu, “Anh uống mọi thứ thuốc hiện có rồi.”
“Thỉnh thoảng ai mà chả cần thuốc.” Tôi bảo.
“Vài người sinh ra đã cần tới thuốc rồi,” Terry đáp.
Cô dùng ngón tay chà xát thứ gì đó trên bàn. Rồi cô ngừng chà, “Anh nghĩ anh muốn gọi điện cho con anh,” Mel bảo. “Chuyện đó có ổn với mọi người không? Tớ sẽ gọi điện cho con tớ,” anh nói.
130 Terri bảo, “Nếu Marjorie trả lời điện thoại thì sao? Anh chị, anh chị nghe bọn em nói chuyện về Marjorie rồi phải không? Anh yêu, anh biết mình không muốn nói chuyện với Marjorie mà. Việc đó chỉ làm anh thấy tệ hơn thôi.”
“Anh không muốn nói chuyện với Marjorie,” Mel bảo. “Nhưng anh muốn nói chuyện với con anh.”
“Không ngày nào trôi qua mà Mel không nói là anh ấy ước chị ấy sớm lấy chồng mới. Không thì chết quách đi cho rồi,” Terri bảo. “Vì một điều,” Terri nói tiếp, “chị ấy làm bọn em trắng tay. Mel bảo chị ta không lấy chồng nữa là để trả thù anh ấy. Chị ta có bạn trai, sống cùng nhà với chị ta và bọn trẻ, thế là Mel cũng nuôi luôn thằng ấy.”
“Cô ta bị dị ứng với ong,” Mel bảo. “Nếu không cầu cho cô ta cưới lại, thì tớ cầu cho cô ta bị đàn ong chết tiệt nào đó đốt tới chết.”
“Nhục mặt chưa,” Laura bảo.
135 “Vù vù vù,” Mel kêu, đưa tay ra giả làm ong rồi bay vù vù về phía cổ Terri. Rồi anh thả hai tay xuống.
“Cô ta hiểm lắm,” Mel bảo. “Thỉnh thoảng tớ nghĩ mình sẽ ghé qua đó, ăn mặc như một tay nuôi ong. Các cậu biết đấy, đội cái mũ chụp có tấm mạng che mặt, đeo găng tay to xụ, mặc áo bông dày cộp ấy? Tớ sẽ gõ cửa rồi nhét một tổ ong vào nhà cô ta. Nhưng dĩ nhiên việc trước tiên cần làm là phải chắc bọn trẻ không có ở nhà.”
Anh ngồi bắt chéo chân. Có vẻ anh mất nhiều thời giờ để làm được việc đó. Rồi anh bỏ chân xuống, nghiêng người về phía trước, chống cùi chỏ lên bàn, hai tay chống cằm.
“Rốt cuộc, có lẽ tớ sẽ không gọi điện cho con mình. Có lẽ đó không phải ý tưởng hay ho gì cho lắm. Có lẽ mình chỉ đi ăn thôi. Thấy sao nào?”
“Với tớ thì được đấy,” tôi bảo. “Ăn hay không ăn. Hay uống tiếp. Tớ có thể lao đầu tới trước trong ánh hoàng hôn.”
140 “Thế là ý gì hả, anh yêu?” Laura hỏi.
“Là như anh nói đấy,” tôi bảo. “Là anh có thể uống tiếp. Ý là thế thôi.”
“Em thì muốn ăn chút gì đó,” Laura bảo. “Em không nghĩ mình từng đói thế này trong đời. Có thứ gì nhấm nháp được không?”
“Em sẽ dọn ít phó mát với bánh quy giòn,” Terri đáp.
Nhưng Terri cứ ngồi đó. Cô không đứng lên lấy gì cả.
145 Mel lật úp ly của mình xuống. Anh làm đổ rượu ra bàn.
“Gin hết rồi,” Mel bảo.
Terri hỏi, “Vậy giờ sao?”
Tôi có thể nghe thấy tim mình đập. Tôi có thể nghe thấy tim mọi người. Tôi có thể nghe thấy âm thanh con người mà chúng tôi tạo ra khi ngồi ở đó, không ai động đậy, cả khi căn phòng tối dần.


Monday, November 25, 2013

Khúc ca Giáng sinh -- Chương 1

Tranh bìa – “Ông là ngựa quý của Tim suốt quãng đường từ nhà thờ về.”



CHƯƠNG 1
HỒN MA MARLEY

Marley chết rồi, đầu tiên là thế. Chả còn gì nghi ngờ gì nữa. Giấy chứng tử đã được mục sư, thư ký, nhân viên tang lễ, người đưa đám chính ký. Scrooge ký. Mà tên tuổi Scrooge nổi tiếng ở Sàn khoán[1] về bất cứ thứ gì lão sờ vào. Marley già vì thế đã chết, chắc như đinh đóng cột.
            Để ý nghe! Tôi không có ý nói là mình biết, trong tầm hiểu biết của mình, thứ gì đó đặc biệt chết chóc liên quan tới đinh đóng cột. Lẽ ra tôi phải bảo là đinh độp quách, bởi đó mới được xem là thứ đồ sắt chết chóc nhất trong nghề này. Nhưng trí khôn của tổ tiên ta nằm trong phép so sánh ấy; và đôi tay tội lỗi của tôi không dám chạm vào nó, không cả nước sẽ tiêu tùng mất thôi. Vì thế, hãy cho phép tôi nhắc lại, để nhấn mạnh là, Marley chết rồi, chắc như đinh đóng cột.
            Scrooge có biết lão chết không? Dĩ nhiên là có. Làm sao khác được? Scrooge và lão là bạn làm ăn suốt từng ấy năm trời mà tôi chả biết là bao lâu nữa. Scrooge là người điều hành duy nhất, quản lý duy nhất, ủy nhiệm duy nhất, thừa kế tài sản duy nhất, bạn duy nhất, kẻ đưa đám duy nhất của Marley. Mà thậm chí Scrooge cũng chả lấy gì làm buồn trước tin buồn kia, trừ việc tỏ ra là tay kinh doanh xuất sắc ngay trong ngày đưa tang, tiến hành nó long trọng bằng một cuộc mặc cả rõ ràng.
            Nhắc tới đám tang Marley khiến tôi quay trở lại xuất phát điểm của mình. Marley chết rồi, chả còn nghi ngờ gì nữa. Việc này phải hiểu cho rành rọt, không thì chuyện tôi sắp kể ra đây chả có gì là hay ho. Nếu ta không tin chuyện cha Hamlet đã chết trước khi vở kịch bắt đầu, thì việc ông ta đi dạo vào ban đêm, trong ngọn gió đông, trên bờ dốc thoải, nhằm, theo nghĩa đen, làm kinh hồn bạt vía con trai mình, so với chuyện một quý ông trung niên vội vàng nhỏm dậy lúc trời hôm khuya khoắt ở nơi có gió hiu hiu thổi – như nghĩa trang Nhà thờ Thánh Paul chẳng hạn, thì đâu có gì đặc biệt.
            Scrooge không bôi bỏ tên Marley già đi. Tên lão vẫn nằm đó, nhiều năm sau, trên biển hiệu văn phòng: Scrooge và Marley. Tên hãng là Scrooge và Marley. Thi thoảng mấy tay mới vào nghề có gọi tới cho Scrooge, lúc lại cho Marley, song Scrooge trả lời tuốt. Tên nào với lão chả thế.
            Ồ! Mà lão chúa là trùm sò, Scrooge ấy! Một lão già tội lỗi tham lam, chụp giựt, vồ vập, vơ vét, bóp nặn từng đồng từng cắc một! Khô cứng, sắc lẻm như đá lửa, mà không thanh thép nào đập vào có thể làm tóe ra một tia lửa hào phóng; kín kẽ, tự lập, và đơn độc như một con sò. Sự lạnh lẽo bên trong khiến thân hình già cả của lão cô đặc lại, cái mũi khoằm khoặm thêm, đôi gò má quắt queo, dáng đi cứng đờ đờ; khiến mắt lão đỏ quạch, cặp môi mỏng tái xanh; và làm lộ ra vẻ khôn lanh trong giọng nói rin rít của lão. Vòng sương giá bao phủ đầu lão, lông mày lão, và cả chiếc cằm thô cứng của lão nữa. Lão luôn mang thứ nhiệt độ lạnh lẽo ấy quanh mình; lão đóng băng văn phòng mình trong những ngày đại thử; và chả thèm làm ấm nó lên lúc Giáng sinh.
            Nhiệt độ và khí lạnh bên ngoài chả ảnh hưởng gì mấy tới Scrooge. Không hơi ấm nào làm lão nóng lên, không giá lạnh nào làm lão rét được. Không ngọn gió nào rét róng bằng lão, không trận tuyết nào khắc nghiệt bằng lão, không cơn mưa hối hả nào lạnh lùng dửng dưng như lão. Thời tiết xấu chẳng biết lão ở đâu mà lần. Mưa tuôn, nước chảy, tuyết lở, băng trôi mạnh nhất cũng chỉ hơn lão được một mặt. Đó là chúng “tuôn chảy” hậu hĩ, chứ Scrooge thì chả bao giờ.
             Không ai trên đường từng dừng lại, vui vẻ nhìn lão bảo, “Ông Scrooge thân mến, ông có khỏe không? Khi nào qua chơi với tôi đây?” Không gã ăn mày nào kỳ kèo xin lão ít bạc lẻ, không đứa trẻ con nào hỏi lão mấy giờ rồi, không thằng đàn ông, ả đàn bà nào trong đời mình đi hỏi đường lão tới chỗ này chỗ nọ. Ngay chó của người mù cũng tỏ ra biết lão; và khi thấy lão đi qua, chúng bèn kéo chủ mình lánh vào sân trước hay hiên nhà; rồi vẫy đuôi như muốn bảo, “Thà mù còn hơn có con mắt quỷ, ông chủ mờ mịt của tôi ạ!”
            Nhưng Scrooge quan tâm làm gì chứ? Lão thích thế mà. Vạch lối riêng trên đường đời tấp nập, cảnh báo tất cả những gì cảm thông thương người vui lòng tránh xa, là điều mà đối với lão, đám người hiểu biết phải gọi là “sướng mê ly”.
            Một ngày nọ –  tức Đêm trước Giáng sinh, một ngày tốt lành trong toàn bộ số ngày tốt lành trong năm –  Scrooge già đang bận rộn trong văn phòng hãng. Trời lạnh lẽo, âm u, rét cắt da cắt thịt, lại có cả mây mù: và lão có thể nghe thấy tiếng người ở bên ngoài, vừa đi vừa thở phì phò, đập tay lên ngực áo, dậm chân xuống đá lát vỉa hè để làm ấm người. Đồng hồ Thành phố vừa mới điểm ba tiếng, mà trời đã tối hù – cả ngày cũng chả sáng sủa gì – vậy là đèn đuốc lập lòe nơi cửa sổ mấy văn phòng gần đó, như những vệt bẩn hoe đỏ trên nền trời màu nâu đặc quánh. Mây mù tràn qua các khe cửa, lỗ khóa, và dày đến độ, chỉ cách nhau có mảnh sân hẹp nhất, ta cũng chỉ lờ mờ thấy mấy căn nhà đối diện. Cứ nhìn đám mây xám xịt rủ xuống, làm mờ đi vạn vật thế kia, hẳn ta phải nghĩ thiên nhiên đã ở đâu đây, đang ùn ùn kéo đến.
            Cửa văn phòng Scrooge để mở, để lão có thể quan sát viên thư ký, người đang ngồi trong cái ngách nhỏ tối tăm, y như cái thùng, ghi chép thư từ. Scrooge có ít lửa sưởi, nhưng lửa của viên thư ký còn nhỏ hơn, trông chả khác gì một hòn than. Song ông ta nào dám xin thêm, vì Scrooge giữ thùng than trong phòng; và khi viên thư ký cầm xẻng vào định lấy, thì  lão đoán được bèn giấu nhẹm nó đi. Thế là viên thư ký bèn lấy chiếc khăn choàng trắng, trùm quanh người để làm ấm mình lên dưới ánh nến; nhưng dù ông ta có giàu trí tưởng tượng đến đâu, thì cũng chả thấy ấm lên tí nào.
“Chúc bác Giáng sinh vui vẻ! Chúa cứu vớt bác!” Một giọng nói vui vẻ cất lên. Đó là giọng cháu trai của Scrooge, người ùa vào phòng nhanh đến nỗi giọng nói là thứ đầu tiên ta nghe thấy, rồi mới đến người.
            “Chà!” Scrooge bảo. “Bịp bợm!”
            Chàng trai, đứa cháu này của Scrooge, đã làm ấm mình bằng cách bước thật nhanh dưới bầu trời mù mây giá rét, nhanh đến nỗi người nóng bừng cả lên; mặt hồng hào, đẹp đẽ; mắt lấp la lấp lánh, hơi thở phả ra thành khói.
            “Giáng sinh mà bịp bợm á!” Cháu của Scrooge kêu lên. “Cháu chắc bác không có ý đó chứ?”
            “Ta có đấy,” Scrooge đáp. “Giáng sinh vui vẻ á! Mà anh có quyền gì vui mới được chứ? Vì lý do gì vui mới được chứ? Anh còn nghèo mà.”
            “Thôi nào,” cậu cháu hoan hỉ đáp. “Vậy bác có quyền gì ủ ê đến là vậy? Vì lý do gì rầu rĩ đến là vậy? Bác giàu rồi mà.”
            Scrooge không có sẵn câu trả lời lúc ấy, bèn kêu, “Chà” một lần nữa, rồi lại bảo, “Bịp bợm”.
            “Đừng cáu, bác ơi!” cậu cháu bảo.
            “Ta làm sao khác được,” ông bác đáp, “khi sống trong thế giới đầy kẻ ngốc thế này? Giáng sinh vui vẻ á! Cút ngay cái Giáng sinh vui vẻ ấy đi! Giáng sinh với anh là thời gian nào nếu chả phải lúc thanh toán hóa đơn mà không có tiền nộp; thấy mình già đi một tuổi, mà không dư ra được một giờ; là lúc cân đối sổ sách, trưng ra trước mặt từng ấy thứ chết dí suốt mười hai tháng trời qua hả? Nếu làm theo ý ta,” Scrooge hằn học bảo, “thì mấy thằng đần đi loanh qua loanh quanh mở mồm ra bảo ‘Giáng sinh vui vẻ’ sẽ bị cho vào nồi luộc chung với bánh pudding Giáng sinh[2], rồi đem chôn với cọc ô rô đâm qua tim. Vậy đó!”
            “Bác ơi là bác!” Cậu cháu nài nỉ.
            “Ông cháu à!” Ông bác lạnh lùng đáp lại, “hãy giữ Giáng sinh theo cách của mình, và để ta giữ nó theo cách của ta.”
            “Giữ nó á!” Cháu trai Scrooge lặp lại. “Nhưng bác có giữ đâu.”
            “Vậy hãy để mặc ta với nó,” Scrooge bảo. “Chúc anh Giáng sinh mọi sự tốt lành! Mọi sự nó đã làm cho anh ấy!”
            “Có nhiều thứ cháu thấy rất tốt, dù chả đem lại lợi lộc gì, cháu dám nói thế đấy,” cậu cháu đáp lời; “Giáng sinh là một trong số ấy. Song cháu chắc mình, khi nó đến gần, luôn nghĩ về nó như một khoảng thời gian tốt lành – bất luận sự sùng kính là do cái tên hay nguồn gốc, nếu bất cứ thứ gì thuộc về nó có thể tách bạch ra khỏi đấy; khoảng thời gian của tình thân ái, lòng từ tâm, sự tha thứ, sự tử tế; khoảng thời gian duy nhất mà cháu biết, trong cả năm dài, khi đàn ông, đàn bà dường như tâm đầu ý hợp mở toang cõi lòng khép kín của mình ra, nghĩ tới những người kém cỏi hơn mình, như thể họ thật sự là bạn bè đồng cam cộng khổ, chứ không phải sinh vật thuộc giống nòi nào khác mà ta tình cờ gặp trên mấy đoạn đường đi. Vì thế, bác ạ, dù nó chả nhét vàng bạc gì vào túi cháu, thì cháu vẫn tin Giáng sinh đã sẽ mang điều tốt lành tới cho mình; vậy cháu mới bảo, Chúa phù hộ Giáng sinh!”
            Viên thư ký ngồi trong cái thùng của mình vô tình vỗ tay. Chợt nhận ra làm thế không phải lúc, ông ta bèn cời lửa, và làm tắt luôn luồng sáng cuối cùng.
            “Tôi mà nghe thêm tiếng nào từ phía anh,” Scrooge bảo, “thì anh sẽ ngồi không ôm Giáng sinh mà xơi đấy! Còn ông thật là một tay hùng biện giỏi, thưa quý ông,” lão quay lại phía cậu cháu, nói thêm. “Ta tự hỏi sao ông không đi làm ông nghị đi.”
            “Đừng giận chứ bác. Thôi! Mai tới chỗ bọn cháu ăn tối nhé.”
            Scrooge bảo sẽ tới – Ừ, tới thật mà. Lão kéo dài giọng, rồi bảo rằng sẽ tới khi nào gặp cậu cháu ở tận cùng thế giới ấy.
            “Sao vậy?” Cháu Scrooge kêu lên. “Sao lại thế cơ chứ?”
            “Vậy sao anh cưới vợ?” Scrooge hỏi.
            “Vì yêu.”
            “Vì yêu !” Scrooge làu bàu, như thể đó là thứ duy nhất trên quả đất nghe còn ngớ ngẩn hơn một Giáng sinh vui vẻ vậy. “Thôi chào nhé!”
            “Mà bác ơi, bác có bao giờ tới thăm cháu trước khi chuyện đó xảy ra đâu. Vậy sao giờ lại lấy nó làm lý do cho việc không tới chơi chứ?”
            “Chào nhé,” Scrooge bảo.
            “Cháu chả muốn thứ gì từ bác; cháu không xin xỏ gì bác; vậy sao mình không làm bạn được nhỉ?”
            “Chào anh!” Scrooge bảo.
            “Cháu xin lỗi, bằng cả tấm lòng, khi thấy bác kiên quyết thế. Chúng ta chưa bao giờ bàn cãi về việc cháu bày tiệc cả. Nhưng cháu đã thử bày tỏ lòng tôn kính Giáng sinh của mình, và sẽ giữ tinh thần Giáng sinh vui vẻ tới phút chót. Vậy nên, Giáng sinh Vui vẻ nghe bác!”
            “Chào anh,” Scrooge bảo.
            “Và một Năm mới Bình an!”
            “Chào!” Scrooge bảo.
            Song cậu cháu rời phòng mà chả hề bực dọc. Cậu dừng lại phía cửa ngoài để gửi lời chúc tới viên thư ký, người dù rất cóng, vẫn ấm lòng hơn Scrooge; vì ông ta thân mật đáp lại lời chúc ấy.
            “Lại thêm thằng nữa,” Scrooge, nghe lỏm viên thư ký nói, liền lẩm bẩm bảo: “thư ký của ta, ăn lương 15 shilling một tuần, có vợ con đùm đề, lại đi chúc Giáng sinh cơ đấy. Ta nghỉ làm vào Bedlam[3] ở mất thôi.”
            Thằng điên này, vừa tiễn cháu của Scrooge ra, lại đón hai kẻ khác vào. Họ là hai quý ông béo tốt, dễ thương, đã bỏ mũ, đang đứng trong phòng Scrooge. Họ cầm bút viết, sổ sách, cúi đầu chào lão.
            “Hãng của Scrooge và Marley, tôi tin là thế,” một trong hai quý ông chỉ vào danh sách của mình, nói. “Tôi hân hạnh được tiếp chuyện với Ông Scrooge, hay Ông Marley đây?”
            “Marley chết được bảy năm rồi,” Scrooge đáp. “Ông ấy mất bảy năm về trước, vào đúng đêm này.”
            “Chúng tôi tin sự hào phóng của ông ấy được cộng sự còn sống của mình thể hiện tốt,” quý ông kia nói, chìa ra thư ủy nhiệm.
            Dĩ nhiên rồi; hai lão từng là bạn tâm giao mà. Nhưng nghe tới từ ‘sự hào phóng’ đầy điềm gở ấy thì Scrooge cau mày, lắc đầu, và đẩy tờ thư ủy nhiệm trở lại.
            “Vào mùa này trong năm, thưa Ông Scrooge,” quý ông nọ đáp, tay cầm cây bút lên, “thường ai cũng mong chúng ta sẽ giúp đỡ một ít cho người nghèo khó, những kẻ phải chịu khổ trong lúc này. Nhiều nghìn người đang cần nhu yếu phẩm; hàng trăm nghìn người đang cần có những tiện ích tối thiểu, thưa ông.”
            “Bộ hết nhà tù rồi sao?” Scrooge hỏi.
            “Nhiều nhà tù lắm ạ,” quý ông nọ đáp, đặt bút xuống.
            “Trại tế bần bên Hội đoàn nữa chi?” Scrooge gặng hỏi. “Đám đó còn hoạt động hay không?”
            “Còn. Còn đấy ạ,” quý ông kia đáp lời. “Tôi ước gì mình có thể bảo chúng ngừng hoạt động cho rồi.”
            “Luật Lao dịch và Luật Người nghèo[4] vẫn chạy đều cả chứ?” Scrooge hỏi.
            “Cả hai đều bận rộn, thưa ông.”
            “Ố! Vậy tôi e, từ những gì mấy ông nói lúc đầu, thì có thứ gì đó khiến chúng ngừng hoạt động cả rồi,” Scrooge đáp. “Tôi rất vui nếu mấy ông nói cho tôi biết.”
            “Vì thấy mấy thứ đó hiếm khi đem lại cho đám đông niềm vui tinh thần và thể chất Thiên chúa giáo,” quý ông nọ đáp lời, “nên chúng tôi đang cố gây quỹ để mua ít đồ ăn thức uống cho người nghèo, cả đồ ấm nữa ạ. Chúng tôi chọn thời điểm này, vì đây là lúc, trong mọi lúc, sự Thiếu Thốn được cảm nhận rõ ràng, còn sự Dư dả cũng bày ra hoan hỉ. Chúng tôi ghi cho ông bao nhiêu đây?”
            “Không gì hết!” Scrooge đáp.
            “Ông không muốn đề tên à?”
            “Tôi muốn mình được yên,” Scrooge bảo. “Thưa quý ông, vì mấy ông hỏi tôi muốn gì, nên đó là câu trả lời của tôi. Tôi không vui khi Giáng sinh đến, và không muốn bỏ tiền cho bọn người lười biếng mua vui. Tôi giúp tiền cho mấy tổ chức mà tôi đã kể trên – riêng chúng là đủ lắm rồi; còn ai nghèo quá thì phải đi đến đấy.”
            “Nhiều người không thể đến đấy; họ thà chết còn hơn.”
            “Nếu họ muốn chết, thì cứ để họ làm thế,” Scrooge đáp, “giảm bớt dân số thừa đi. Vả lại, xin lỗi nhé, tôi không biết chuyện này đâu”
            “Nhưng ông phải biết chứ,” một quý ông kêu lên.
            “Không phải việc của tôi,” Scrooge đáp trả. “Một người hiểu chuyện kinh doanh của mình, không tham gia vào chuyện của người khác là đủ lắm rồi. Việc của tôi mất nhiều thì giờ lắm. Chào nhé, các quý ông!”
            Thấy rõ là có đeo đuổi cũng chả được gì, hai quý ông nọ đành rút lui. Scrooge quay lại với việc của mình, lấy làm phởn chí, và tỏ vẻ bông lơn hơn thường lệ.
            Trong khi đó mây mù và bóng tối dày đặc, đến nỗi người ta chạy quanh thành hàng với ngọn đèn lấp lóe trên tay, nhận làm chân soi đường chỉ lối cho các cỗ xe ngựa. Tháp chuông cổ kính của nhà thờ, nơi cái chuông cũ kỹ thô lỗ luôn ranh mãnh nhòm ngó vào phòng Scrooge qua khung cửa kiểu Gothic trên tường, giờ biến mất, đánh chuông cứ 15 phút và từng tiếng một trong mây, để lại đằng sau những rung động run rẩy, như thể răng nó va lập cập trong cái đầu bị đóng băng ở tuốt trên cao. Cái lạnh thật khắc nghiệt. Trên phố chính, ở góc sân, mấy chú lao công đang sửa đường ống khí, có nhóm một lò lửa lớn, quanh đó đám đàn ông, trẻ trai ăn mặc rách rưới tụ tập lại: hơ tay, háy mắt khoan khoái nhìn ngọn lửa. Cống xả thải để mặc không đậy điệm, nước tràn ra ngoài lập tức đông đặc lại, hóa thành thứ băng thù ghét con người. Ánh sáng ở mấy cửa hiệu, nơi cành và quả ô rô kêu tanh tách dưới sức nóng của ngọn đèn quầy hàng, khiến những gương mặt xanh xao lướt qua hồng hào hẳn lên. Tiệm bán gia cầm và rau quả trở thành chốn đùa vui: một hoạt cảnh huy hoàng tráng lệ là vậy, nên người ta khó tin được là mấy nguyên tắc chán phèo như mặc cả, đại hạ giá lại phát huy tác dụng ở đấy. Ngài Thị trưởng, trong thành trì dinh thự đồ sộ của mình, lệnh cho 50 đầu bếp và quản gia bày tiệc Giáng sinh sao cho xứng tầm thị trưởng; thậm chí chú thợ may nhỏ thó, người vừa bị phạt năm xi-linh thứ Hai tuần rồi vì tội say xỉn, gây lộn ngoài đường, cũng đang đảo món bánh pudding Giáng sinh dành cho bữa mai trên gác xép, trong khi cô vợ gầy gò ôm đứa nhỏ lượn ra phố mua thịt bò.
            Trời càng lúc càng thêm mù mịt, lạnh lẽo! Cái lạnh cắt da cắt thịt, thấu buốt ruột gan, tê cóng cả chân tay. Nếu Thánh Dunstan[5] tốt lành mà dùng thời tiết này chọc vào mũi Quỷ sứ, thay vì dùng thứ vũ khí quen thuộc, thì hắn hẳn sẽ phải gầm lên khiếp đảm. Một chàng trai có cái mũi măng sữa hiếm hoi, bị cái lạnh đói khát gặm nhấm, nhá nhẩm, như thể cục xương bị đàn chó gặm, cúi xuống nhòm vào lỗ khóa nhà Scrooge, đề nghị hát tặng lão một ca khúc Giáng sinh; nhưng ngay khi những âm thanh đầu tiên cất lên, “Chúa phù hộ ngài, quý ông vui vẻ ơi; Chúc ngài không còn gì buồn phiền nữa hết!” thì Scrooge vớ lấy cây thước kẻ vung mạnh đến nỗi chàng ca sĩ sợ quá ù té chạy, để cái lỗ khóa lại cho mây mù, và đám sương giá còn thân thiện hơn lão già kia.
            Rốt cuộc cũng đã tới giờ đóng cửa văn phòng hãng. Với tâm địa xấu xa, Scrooge rời ghế, ngầm thừa nhận sự thật ấy với viên thư ký đang chờ đợi nơi cái thùng, người ngay lập tức thổi tắt ngọn nến, đội mũ lên đầu.
            “Tôi cho là anh muốn nghỉ ngày mai, đúng không?” Scrooge bảo.
            “Nếu thấy tiện, thưa ông.”
            “Thế không tiện, không công bằng đâu,” Scrooge bảo. “Nếu tôi buộc phải cắt nửa đồng crown[6] vì chuyện đó, thì anh sẽ nghĩ mình bị bạc đãi đúng không?”
            Viên thư ký cười nhạt.
            “Ngược lại,” Scrooge tiếp, “anh đâu có nghĩ là tôi bị bạc đãi nếu trả cho anh cả ngày lương trong khi anh chả làm việc gì.”
            Viên thư ký bảo đây là dịp duy nhất trong năm.
            “Cái cớ tồi tệ để móc túi một người vào mỗi 25 tháng 12!” Scrooge bảo, cài nút chiếc áo khoác to tướng của mình lên tới cằm. “Nhưng tôi cho là anh sẽ làm cả ngày đấy. Mai đến sớm nhé.”
            Viên thư ký hứa sẽ đến; còn Scrooge làu bàu đi ra. Văn phòng lập tức được đóng lại, và viên thư ký, với đầu chiếc khăn choàng dài lòng thòng đến tận eo (vì ông ta chả thể khoe khoang về chiếc áo khoác to tướng nào), bèn tới cầu trượt trên phố Cornhill[7], nơi cuối đường có một đám trẻ trai, trèo lên tuột xuống 20 lần để đón mừng Đêm trước Giáng sinh, rồi vắt chân lên cổ chạy một mạch về nhà bên quận Camden, để chơi trò bịt mắt bắt dê.
            Scrooge ăn bữa tối buồn thảm trong quán ăn buồn thảm quen thuộc của mình; sau đó đọc hết mớ báo chí, tiêu khiển với mớ tài khoản sổ sách cho hết tối, rồi về nhà đi ngủ. Lão sống trong loạt buồng trước kia thuộc về viên cộng sự đã mất của mình. Chúng là một loạt buồng đôi ảm đạm, nằm trong tòa nhà thấp tầng phía trước có một mảnh sân, nơi có rất ít việc để tồn tại cái mảnh sân ở đấy, ít đến nỗi chả ma nào thèm léo hánh tới khi tòa nhà còn mới, chơi trốn tìm với các tòa nhà khác, và quên mất lối ra. Giờ nó cũ kỹ và tồi tàn lắm; không ai sống ở đó ngoại trừ Scrooge, các buồng khác thì đều mở ra làm văn phòng cả. Sân thì tối đến độ ngay cả Scrooge, người biết rõ từng hòn đá một, cũng xin miễn cho vụ mò đường. Sương giá phủ đầy cánh cổng cũ đen đúa của tòa nhà, như thể Thần thời tiết đang ngồi buồn thương nơi ngưỡng cửa.
            Giờ hiển nhiên ta thấy cái vòng gõ cửa chả có gì đặc biệt, trừ việc nó rất lớn. Hiển nhiên Scrooge cũng đã thấy nó, ngày cũng như đêm, suốt thời gian sống ở đây; mà bản thân Scrooge cũng thấy rất ít những gì có thể được xem là hay ho, cuốn hút mình, hệt như bất cứ gã đàn ông nào ở Thành Luân Đôn này, bao gồm – từ này gớm lắm đấy – cả hội đồng thành phố, hội đồng phân khu, thành viên phường hội. Nên nhớ là Scrooge chả thèm nghĩ tới Marley tẹo nào từ hồi chiều, khi nhắc lại cái chết cách đây bảy năm của cộng sự, tới giờ. Vậy nên hãy để ai đó giải thích cho tôi, nếu ông ta có thể làm thế, việc làm sao mà Scrooge, đang tra chìa vào ổ khóa, thì thấy trong cái vòng gõ cửa, dù không trải qua sự biến đổi nào – giờ không còn là nó nữa, mà là mặt Marley.
            Mặt Marley. Nó không phải cái bóng không thể xuyên thấu như mọi thứ khác trong vườn, mà là thứ ánh sáng ảm đạm, hệt như tôm hùm thiu thối dưới hầm rượu tối. Nó không giận dữ hay hung ác, mà chỉ nhìn Scrooge hệt như Marley đã nhìn: với đôi mục kỉnh ma bị đẩy lên phía trước vầng trán ma. Tóc nó dựng đứng một cách kỳ lạ, như thể bị một luồng hơi nóng thổi qua; và dù mở to, cặp mắt lại hoàn toàn bất động. Cộng với màu xám xanh của nó, hồn ma trông thật khủng khiếp; nhưng sự đáng sợ đó bất chấp cả khuôn mặt, vượt quá mức kiểm soát, chứ không phải một phần vẻ biểu cảm của nó.
            Khi Scrooge chăm chú nhìn lại hiện tượng trên, thì nó lại biến thành cái vòng gõ cửa.
            Quả thật không đúng nếu bảo là lão không ngạc nhiên, hay máu trong người lão không sôi lên vì cảm xúc kinh khủng nào đó vốn xa lạ với lão từ bé tới giờ. Nhưng lão vẫn đặt tay lên chiếc chìa vừa mới buông ra, vặn mạnh nó, bước vào phòng và thắp nến lên.
            Lão dừng lại, phân vân một chút, trước khi đóng cửa; và lão cẩn thận nhìn lại phía sau, như nửa tin nửa ngờ là sẽ bị cái đuôi tóc của Marley thò ra nơi hành lang dọa cho mẻ nữa. Nhưng chả có gì sau cánh cửa, trừ mớ bù loong, đinh vít giữ cho cái vòng gõ nằm đó, vậy là lão kêu lên, “Xì, xì!” rồi đóng sầm cửa lại.
            Tiếng cửa đóng ầm vang khắp nhà, nghe như tiếng sấm. Mỗi căn buồng bên trên, và mọi ngóc ngách hầm rượu của nhà buôn ở bên dưới, đều như dội lại từng phần tiếng động đó. Scrooge không phải người sợ tiếng dội. Lão khóa cửa, băng qua hành lang, leo lên lầu: lão đi thật chậm, vừa đi vừa che ngọn nến của mình.
            Bạn có thể vội vàng bảo rằng đi lên cầu thang cũ thì y như lái một cỗ xe có sáu người ngồi ở trên, hay như duyệt một Đạo luật Quốc hội vừa non tay vừa dở hơi là cùng; nhưng ý tôi lại bảo bạn rằng đi lên cái cầu thang ấy thì y như ngồi trên một chiếc xe tang, mà nhìn rộng ra, thì trục xe hướng về phía bức tường, còn cửa xe hướng về phía lan can: nói vậy đi cho dễ hình dung. Có nhiều khoảng không, nhiều căn phòng để trống về hướng ấy; và đó có lẽ là lý do tại sao Scrooge nghĩ lão nhìn thấy một chiếc xe tang di động đang lờ mờ ở phía trước. Nửa tá đèn thắp ngoài đường chưa chắc đã soi tỏ lối vào, vậy nên bạn có thể hiểu là Scrooge đang chìm trong bóng tối mịt mù.
            Scrooge cứ thế đi lên, không mảy may quan tâm gì đến việc ấy. Bóng tối rẻ rề, mà Scrooge thì thích thế. Nhưng, trước khi đóng cánh cửa nặng nề lại, lão rảo qua các buồng xem mọi thứ có ổn cả không. Lão nhớ rõ khuôn mặt kia đến độ rất muốn làm thế.
            Phòng khách, phòng ngủ, nhà kho. Tất cả đều ổn thỏa. Không ai ở dưới gầm bàn, gầm ghế xô-pha; ngọn lửa nhỏ cháy trong lò; muôi thìa, bồn rửa y nguyên; và cái nồi con nấu cháo thì đặt trên ngăn hâm lại (Scrooge bị cảm lạnh nhức đầu). Không ai ở dưới gầm giường; trong tủ áo; không ai bận áo ngủ của lão, thứ treo trên tường với dáng vẻ đáng ngờ. Nhà kho vẫn bình thường. Khung chắn lò sưởi cũ, đôi giày cũ, hai cái giỏ đựng cá, cái giá ba chân để đặt chậu rửa mặt, và que cời lửa vẫn y nguyên.
            Rất hài lòng, lão đóng cửa buồng lại, tự nhốt mình bên trong; tức là nhốt mình hai lần ở bên trong, vốn không phải thói quen của lão. Sau khi an toàn trước mẻ hú hồn vừa rồi, lão cởi cà-vạt, khoác lên mình chiếc áo ngủ, mang đôi dép ngủ, đội lên đầu chiếc mũ ngủ, rồi ngồi xuống trước ngọn lửa chén món cháo của mình.
            Lửa trong lò thật ra rất nhỏ; chả là gì trong một đêm khắc nghiệt đến thế. Lão buộc phải ngồi gần nó, nghiền ngẫm hồi lâu, trước khi có thể cảm nhận chút ấm áp tỏa ra từ nguồn năng lượng nhỏ bé ấy. Đó là một cái lò sưởi cũ, được một thương gia Hà Lan nào đấy xây từ rất lâu rồi, lát toàn bằng gạch Hà Lan trông lạ mắt, trang trí theo kiểu minh họa điển tích Kinh Thánh. Có cảnh về Cain và Abel, con gái các Pharaoh, Nữ hoàng Sheba, các thiên sứ giáng trần trong những đám mây nom như những chiếc giường làm bằng lông vũ, tổ phụ Abraham, Belshazzar, các tông đồ ra khơi trên những con thuyền sâu đáy, hàng trăm nhân vật thu hút ý nghĩ lão; và khuôn mặt của Marley, đã chết bảy năm rồi, hiện ra như cây gậy của Nhà tiên tri, nuốt chửng hết tất cả. Nếu mỗi viên gạch trơn láng kia ban đầu mà trống không, thì với khả năng định hình những mảnh ghép rời rạc ý nghĩ của lão trên đó, hẳn mỗi viên phải mang hình cái đầu của Marley.
            “Bịp bợm!” Scrooge kêu lên; rồi rảo bước quanh buồng.
            Sau vài lượt tới lui, lão lại ngồi xuống ghế. Lúc ngả đầu ra sau, lão tình cờ liếc qua cái chuông, một cái chuông không dùng đến, được treo trong phòng, vì lý do nào đó mà giờ chả ai còn nhớ, được nối với căn buồng trên tầng cao nhất của tòa nhà. Và thật kinh ngạc, khiếp sợ làm sao, một sự khiếp sợ kỳ lạ, không giải thích nổi, khi lão nhìn thấy chiếc chuông bắt đầu rung. Ban đầu nó rung nhẹ đến nỗi hầu như không kêu thành tiếng; nhưng chả mấy chốc nó reo to, và mọi cái chuông trong tòa nhà đều thế.
            Chuyện đó xảy ra đâu chừng nửa phút, hay một phút, nhưng cứ như cả giờ đồng hồ. Đột nhiên toàn bộ số chuông ngừng kêu, hệt như khi chúng bắt đầu. Rồi tiếng loảng xoảng ở tít bên dưới nối tiếp tiếng chuông, như ai đó đang kéo lê sợi xích nặng trên những chiếc thùng rượu dưới hầm của tay nhà buôn vậy. Scrooge chợt nhớ đã được nghe bảo là ma trong mấy căn nhà bị ám thường hay đeo xích lắm.
            Cửa tầng hầm bật mở cái rầm, rồi lão nghe thấy tiếng động to hơn ở các tầng bên dưới; rồi trên cầu thang; rồi tới thẳng buồng lão.
            “Lại bịp!” Scrooge nói. “Mình chả tin chuyện này.”
            Dù vậy mặt lão biến sắc khi tiếng động đó, không hề dừng lại, mà đi qua cánh cửa nặng nề, lướt vào phòng ngay trước mắt lão. Khi nó vào, ngọn lửa đang tàn lụi chợt bùng lên, như thể kêu to, “Tôi biết hắn! Là hồn ma Marley đó!” rồi nhỏ lại.
            Khuôn mặt cũ: y hệt như cũ. Marley với đuôi tóc, áo chẽn, quần bó, giày ủng thường dùng; ngù bông cột nơi chòm râu, y như cái đuôi tóc, rồi áo đuôi tôm, mớ tóc trên đầu. Sợi xích lão kéo theo bị khóa lại ở giữa. Đó là sợi xích dài và quấn quanh người lão hệt như một cái đuôi; và (khi Scrooge nhìn gần thì thấy) nó được làm từ đám tráp đựng tiền, chìa khóa, ổ khóa, sổ cái, chứng từ, ví tiền nặng trĩu, và đều bằng thép cả. Thân hình lão trong suốt; đến nỗi Scrooge nhìn lão, thì thấy luôn hai cái nút đính đằng sau chiếc áo lão đang mặc.
            Scrooge thường nghe người ta bảo là Marley không có ruột, nhưng lão chả bao giờ tin cho tới tận lúc này.
            Mà thậm chí lúc này đây, lão cũng chả tin nổi nữa. Dù lão nhìn qua lại mấy lần hồn ma, và rành rành thấy nó đứng đực ra đấy; dù lão cảm thấy luồng khí lạnh tỏa ra từ cặp mắt lạnh lẽo chết chóc của nó; nhận ra từng đường dệt của chiếc khăn tay xếp lại được quấn quanh đầu cổ nó, thứ trước đó lão chưa kịp nhìn ra; thì lão vẫn ngờ vực, và tìm cách bác bỏ giác quan của mình.
            “Giờ sao nào!” Scrooge bảo, cay độc và lạnh lùng như mọi khi. “Anh muốn gì ở tôi nào?”
            “Nhiều lắm!” – Giọng của Marley, chả còn nghi ngờ gì nữa.
            “Anh là ai?”
            “Hỏi xem tôi đã là ai đi.”
            “Vậy anh đã là ai?” Scrooge cất cao giọng hỏi. “Anh, đặc biệt vì cái bóng này.” Lão định nói “với cái bóng này,” nhưng kịp thay từ cho phù hợp.
            “Lúc còn sống tôi từng là cộng sự của anh, Jacob Marley.”
            “Anh – anh ngồi xuống được không?” Scrooge hỏi, nhìn hồn ma đầy vẻ nghi ngờ.
            “Được.”
            “Vậy ngồi đi.”
            Scrooge hỏi thế, là vì lão không biết liệu một hồn ma trong suốt có ngồi xuống được hay không; và thấy là, trong một sự việc khó có thể xảy ra, thì lời giải thích gây lúng túng lại hay cần đến. Nhưng Hồn ma ngồi xuống phía đối diện lò sưởi, như thể quen với việc đó từ rất lâu rồi.
            “Anh không tin tôi,” Hồn ma bảo.
            “Tôi không tin,” Scrooge đáp.
            “Do đâu anh thấy tôi nếu chả phải do giác quan của anh mà ra?”
            “Tôi không biết,” Scrooge đáp.
            “Sao anh nghi ngờ giác quan của mình thế?”
            “Là vì,” Scrooge bảo, “một vật tí teo cũng ảnh hưởng tới chúng. Dạ dày không ổn là chúng hỏng. Anh có thể chén phải ít thịt bò, chút mù tạt, mẩu phó mát khó tiêu, miếng cà chua tai tái. Dù anh có là thứ quái quỷ gì đi nữa, thì có khi do tôi xơi nhiều nước sốt quá chứ chả phải hồn ma bóng quế gì.”
             Scrooge không có thói quen tếu táo, trong thâm tâm cũng chẳng muốn đùa vui. Sự thật là, lão đang cố tỏ ra ranh ma, nhờ đó làm xao lãng sự chú tâm và giảm bớt sự kinh hãi của chính mình; vì giọng nói của hồn ma khiến lão lạnh cả xương sống.
            Im lặng ngồi nhìn cặp mắt đờ đẫn bất động ấy được một lúc, Scrooge chịu hết nổi. Sự tồn tại của bóng ma có cái gì đó thật khủng khiếp, bên cạnh bầu không khí quái đản của nó. Scrooge không thể tự mình cảm nhận ra, nhưng rõ là thế; dù Hồn ma ngồi hoàn toàn bất động, thì tóc tai, đuôi áo, cái ngù bông vẫn bay phần phật như bị hơi nóng trong lò thổi qua.
            “Anh thấy cây tăm này không?” Scrooge hỏi, nhanh chóng quay lại phản pháo, vì lý do vừa nêu; và ước ao, dù chỉ một giây, có thể tránh cái nhìn lạnh tanh của bóng ma nọ.
            “Thấy,” Hồn ma đáp.
            “Anh có nhìn nó đâu,” Scrooge bảo.
            “Nhưng tôi thấy,” Hồn ma đáp, “dù không nhìn.”
            “Ồ!” Scrooge đáp trả, “tôi phải nuốt trôi điều này, và sống nốt quãng đời còn lại bị đám yêu tinh quỷ sứ quấy rầy, tất cả đều do tôi bịa đặt ra. Bịp bợm, tôi bảo anh thế đấy; bịp tất!”
            Đến đây thì hồn ma rú lên một tiếng ghê rợn, và lúc lắc sợi xích với tiếng ồn thật thê thảm, hãi hùng, đến nỗi Scrooge phải nắm chặt thành ghế, để khỏi ngã lăn ra bất tỉnh. Nhưng lão còn khiếp vía hơn khi bóng ma tháo chiếc khăn quấn quanh đầu ra, như thể quấn nó trong nhà thì bức quá, và cái hàm dưới của nó liền trễ ngay xuống ngực!
            Scrooge ngã khuỵu gối, lấy tay che mặt.
            “Trời ơi!” lão kêu lên. “Hình bóng ghê sợ kia, sao ngươi làm phiền ta vậy?”
            “Này con người của thế giới trần tục!” Hồn ma đáp lại, “ngươi đã tin ta chưa?”
            “Ta tin,” Scrooge đáp. “Phải tin thôi. Nhưng vì sao hồn ma bóng quế đi lại trên mặt đất, vì sao chúng tìm đến chỗ ta?”
            “Cái đó do từng người,” Hồn ma đáp, “mà linh hồn hắn có đi đi lại lại giữa đám bằng hữu, và bay xa bay rộng hay không; nếu lúc còn sống, linh hồn hắn không chịu đi đâu, thì sau khi chết nó sẽ bị kết tội. Nó phải chịu cái án lang thang vất vưởng khắp thế gian này – ôi, thương thay cái thân ta! – và chứng kiến những điều nó không thể sẻ chia, mà lẽ ra phải sẻ chia và biến nó thành niềm vui khi còn sống!”
            Bóng ma lại rú lên, lúc lắc sợi xích và siết chặt tay mình.
            “Ngươi bị xích,” Scrooge run rẩy bảo. “Nói cho ta biết tại sao đi?”
            “Ta mang sợi xích do chính tay ta rèn ra khi còn sống,” Hồn ma đáp. “Ta làm từng mắt xích của nó, từng phân một; ta tự mình quấn nó vào người, tự mình cả đấy. Ngươi có thấy lạ không?”
            Scrooge càng lúc càng run hơn.
            “Hay ngươi cũng biết,” Hồn ma nói tiếp, “sức nặng và độ dài cuộn xích mà ngươi sẽ phải mang? Nó đã nặng và dài bằng ngần này cách đây bảy mùa Giáng sinh rồi. Từ đó tới giờ ngươi đã vất vả rèn thêm nó. Đó là sợi xích nặng khủng khiếp!”
            Scrooge liếc nhìn bóng của mình trên sàn, lo sẽ thấy mình bị quấn bởi một sợi xích sắt dài 50, 60 sải, nhưng lão chẳng thấy gì.
            “Jacob!” lão vật nài kêu. “Jacob Marley già, bảo tớ biết thêm đi! Nói lời an ủi tớ đi, nào Jacob!”
            “Tớ chả có gì để nói cả,” Hồn ma đáp lại. “Thứ ấy từ nơi khác đến, Ebenezer Scrooge ạ, được người khác mang tới cho những kẻ khác nhau. Tớ chả thể bảo cậu điều mình muốn. Tớ được phép nói rất ít. Tớ không thể ngơi nghỉ, không thể ở lại, không thể nấn ná ở bất cứ đâu. Hồn tớ khi xưa chưa từng đi quá văn phòng hãng – nhớ lời tớ nhé; lúc sống hồn tớ có bao giờ lượn quá ranh giới chỗ đổi chác tiền bạc của bọn mình đâu; nên giờ những chuyến hành trình mệt lử cứ chờ tớ phía trước!”
            Scrooge có thói quen khi nào nghĩ lung thì đút tay vào túi quần. Nên khi ngẫm nghĩ về những gì Hồn ma nói, lão lại làm thế, mà không cần ngước mắt lên nhìn hay nhấc đôi đầu gối.
            “Vậy chắc cậu buồn lắm, Jacob nhỉ?” Scrooge bảo bằng cái vẻ thạo đời, dù có đôi chút nhún nhường, kính trọng.
            “Buồn chán á!” Hồn ma lặp lại.
            “Thì chết bảy năm rồi còn gì,” Scrooge đăm chiêu bảo. “Mà đi đi lại lại suốt?”
            “Đi lại suốt,” Hồn ma đáp. “Chả nghỉ chả ngơi gì cả. Thật là đòn tra tấn liên tục đầy đớn đau.”
            “Cậu đi có nhanh không?” Scrooge hỏi.
            “Trên đôi cánh của gió ấy,” Hồn ma đáp.
            “Chắc cậu phải lướt qua vô số nơi trong suốt bảy năm qua,” Scrooge bảo.
            Hồn ma, nghe thấy thế, lại rú lên, và khua sợi xích của mình trong sự im lặng chết chóc của đêm khuya, khủng khiếp đến nỗi cả khu phố hẳn phải kêu gào về việc làm phiền.
            “Ôi! Bị giam cầm, cùm kẹp, bị hai lần xiềng xích,” bóng ma kêu khóc, “vì chả biết là, bao công lao khó nhọc không ngừng nghỉ, do quỷ thần bỏ ra, cho thế gian này rồi sẽ trôi cả vào vĩnh hằng, cho tới khi phần tốt đẹp mà thế gian có thể có, tiếp tục được phát triển! Vì chả biết là, bất cứ linh hồn Thiên chúa giáo nào làm việc tử tế trong giới hạn nhỏ bé của mình, dù đó là bất cứ việc gì, thì sẽ thấy đời sống phàm tục của mình quá ngắn ngủi để chỉ giành giật lấy vô vàn những điều xa xỉ tiện lợi! Vì chả biết là, không hối hận nào có thể sửa lại cơ hội trời phú cho cả đời người đã bị dùng sai! Là thế đấy! Ôi tớ là thế đấy!”
            “Nhưng cậu luôn là tay kinh doanh giỏi mà Jacob,” Scrooge, kẻ bắt đầu nghiệm lại điều đó với chính mình, ấp úng nói.
            “Kinh doanh á!” Hồn ma kêu lên, bóp chặt đôi tay lần nữa. “Con người là chuyện kinh doanh của tớ. Ích lợi chung là chuyện kinh doanh của tớ; việc thiện nguyện, nhân từ, lòng độ lượng, nhân đức, tất tần tật, đều là chuyện kinh doanh của tớ. Buôn bán chỉ là giọt nước trong cả đại dương kinh doanh bao la của tớ!”
            Nó nhấc sợi xích lên cao chừng cánh tay, như thể đó là nguyên do cho tất cả nỗi buồn đau vô ích của mình, rồi quật mạnh xuống đất.
            “Thời điểm này trong suốt cả năm,” hồn ma tiếp, “là lúc tớ khốn khổ nhất. Sao tớ lại đi lại giữa đám bằng hữu với đôi mắt cụp xuống, chả bao giờ ngước lên nhìn Vì sao phước lành đã dẫn đường Ba vua tới hang đá nghèo khổ cơ chứ? Chả có mái nhà nghèo khổ nào lẽ ra đã soi đường dẫn lối tớ ư?”
            Scrooge suy sụp hẳn khi nghe hồn ma ca thán mãi thế, và bắt đầu run lẩy bẩy.
            “Nghe này!” Hồn ma rú lên. “Thời gian của tớ sắp hết.”
            “Rồi rồi,” Scrooge bảo. “Đừng khắc nghiệt với tớ thế! Đừng hoa hòe hoa sói nữa Jacob! Cầu nguyện đi!”
            “Làm sao mà tớ hiện hình cho cậu thấy, tớ chả thể nói ra. Tớ đã ngồi đây, vô hình cạnh cậu, từ lâu lắm rồi.”
            Đó không phải là ý dễ chịu cho lắm. Scrooge run lên, lau mồ hôi trán.
            “Phần tớ hết thật rồi,” Hồn ma nói tiếp. “Đêm nay tớ tới đây là để cảnh báo cậu, rằng vẫn còn một cơ hội, hi vọng thoát khỏi kiếp nạn như tớ. Cơ hội và hi vọng do tớ mang tới, Ebenezer ạ.”
            “Cậu luôn là bạn tốt của tớ,” Scrooge nói. “Cảm ơn nhé!”
            “Cậu sẽ bị,” Hồn ma nói tiếp, “ba hồn ma ám.”
            Mặt Scrooge xụ xuống gần bằng mặt Hồn ma.
            “Đó có phải là cơ hội và hi vọng mà cậu vừa nhắc tới không, Jacob?” lão hỏi bằng giọng ấp úng.
            “Chính nó.”
            “Tớ – tớ nghĩ mình không thích thế,” Scrooge bảo.
            “Nếu không gặp chúng,” Hồn ma đáp, “cậu không hi vọng tránh được con đường mà tớ đã đi đâu. Đợi gặp hồn ma đầu tiên lúc chuông nhà thờ đánh một giờ nhé.”
            “Tớ không gặp ba con một lúc cho xong được sao, hở Jacob?” Scrooge gợi ý.
            “Đợi gặp hồn ma thứ hai vào đêm tiếp theo cũng vào giờ ấy. Con thứ ba, đến vào đêm kế tiếp khi chuông nhà thờ vừa dứt tiếng thứ 12. Cậu không thấy tớ nữa đâu; và nhìn đi, vì mình đấy, nhớ những gì đã xảy ra giữa hai ta!”
            Nói xong những từ ấy, bóng ma lấy cái khăn để trên bàn, quấn quanh đầu như trước. Scrooge biết điều này qua tiếng lộc cộc mà răng rợ tạo ra khi đôi hàm được bó lại. Lão đánh bạo ngước mắt nhìn lần nữa, và thấy vị khách siêu nhiên đang đứng đối mặt với mình, người và tay bị xích quấn lấy.
           Hồn ma bước giật lùi; và mỗi bước nó đi, cửa sổ lại nâng lên một chút để khi nó vừa đến, thì cửa sổ mở toang. Nó ra hiệu cho Scrooge đến gần, và lão làm theo. Khi họ còn cách nhau hai bước, thì Hồn ma Marley giơ tay, bảo Scrooge không tiến lại gần hơn nữa. Scrooge ngừng lại.
            Chả phải do ngoan ngoãn, nghe lời mà là do ngạc nhiên, khiếp sợ, nên khi Marley giơ tay ra, Scrooge cảm nhận được những tiếng ồn lộn xộn trong không trung; những âm thanh rời rạc của lời than van, hối tiếc; tiếng khóc của niềm đau và sự tự buộc tội mình không thốt nên lời. Hồn ma, sau một hồi nghe ngóng, liền hòa vào khúc tang ca buồn thảm ấy; rồi trôi vào đêm tối đen ngòm, ảm đạm.
            Scrooge theo chân Hồn ma ra tới cửa sổ; lòng quá đỗi tò mò. Lão nhìn ra ngoài.
            Không trung đầy những hồn ma, bay lượn đó đây không ngừng nghỉ, vừa bay vừa khóc than. Mỗi con lại mang xích hệt như Hồn ma Marley; vài con (chúng có thể là đám quan chức phạm tội) còn bị xích lại với nhau; không con nào thoát cả. Nhiều con lúc còn sống trông rất quen với Scrooge. Lão nhận ra một con ma già mặc tấm áo chẽn màu trắng, đeo cái két sắt gắn vào khóa xích, đang khóc lóc thảm thiết vì không thể giúp một thiếu phụ bất hạnh, tay ẵm con nhỏ, đang ngồi nơi bậc thềm bên dưới. Điều đau khổ với chúng, rõ ràng là, vì lòng tốt, chúng muốn xen vào chuyện con người, nhưng chả còn đâu khả năng đó nữa.
            Scrooge chả thể nói là liệu mấy sinh vật này lẩn vào mây mù, hay mây mù che phủ chúng. Nhưng giọng nói và bản thân chúng cùng biến mất; và đêm lại trở lại như cũ khi lão quay gót vào nhà.
             Scrooge đóng cửa sổ lại, rồi xem xét cánh cửa mà Hồn ma Marley đã lướt qua. Nó được khóa hai vòng, y như lúc lão tự tay mình khóa lại, và chốt cửa còn y nguyên. Lão cố thốt ra hai từ “Bịp bợm!” nhưng chỉ được âm đầu tiên là im bặt. Và vì rúng động với chuyện vừa rồi, mệt mỏi vì làm cả ngày dài, hay do nhìn thấy cái Thế giới Vô hình kia, đối thoại nhạt phèo với Hồn ma nọ, cùng sự trễ nải của giờ giấc, mà lão thấy cần được nghỉ ngơi khủng khiếp, thế là lão lao vào giường, chả thèm cởi quần áo, lập tức lăn ra ngủ.
           


[1] Sàn giao dịch Hoàng gia nơi các thương nhân, ông chủ nhà băng thực hiện giao dịch buôn bán.
[2] Bánh pudding Giáng sinh hay pudding mận (mận vào thời tiền Victoria dùng để chỉ nho khô), hay đơn giản là pud, tức bánh dồi, vì được làm từ bột, trứng, trái cây khô nghiền và mỡ bò hay mỡ cừu trộn vào nhau, thỉnh thoảng còn có thêm mật đường, quế, nhục đậu khấu, đinh hương, gừng và các loại gia vị khác, rồi được nhồi vào túi vải (hoặc lòng như trường hợp black pudding – dồi huyết của người Ireland). Bánh được luộc khá lâu (thường là vài tiếng), và khi ăn thì rưới ít rượu ở đáy đĩa rồi đốt lên.
[3] Bedlam hay Bệnh viện Hoàng gia Bethlem, bệnh viện tâm thần đầu tiên ở Luân Đôn. Ý Scrooge nói là vào nhà thương điên.
[4] Luật ra đời dưới thời của Nữ hoàng Victoria, nhằm tạo điều kiện để hàng cứu trợ tới tay người nghèo được hiệu quả. Song luật ra đời chỉ làm sâu sắc thêm sự khác biệt giàu nghèo, và được thay bằng Luật người nghèo sửa đổi vào năm 1834.
[5] Dunstan là một họa sĩ, thợ kim hoàn, thợ rèn. Bị tòa án trục xuất, ông xây một nhà ngục gần nhà thờ Glastonbury và làm việc ở đó. Theo Thánh kinh, Quỷ sứ đã tới trò chuyện cùng ông. Ông vẫn nói trong khi rèn, tới khi cái kẹp trong tay mình đỏ rực cả lên, thì bất ngờ quay sang kẹp vào mũi Quỷ.
[6] 1 crown = 5 shilling hay 60 xu. Nửa đồng crown là 30 xu.
[7] Phố được đặt theo tên một chợ bán ngũ cốc không còn nữa (Cornhill nghĩa đen là Đồi Ngũ cốc).