Tranh bìa – “Ông là ngựa quý của Tim suốt quãng đường từ nhà thờ về.” |
CHƯƠNG 1
HỒN MA MARLEY
Marley chết rồi, đầu tiên là thế. Chả còn gì nghi ngờ gì nữa. Giấy
chứng tử đã được mục sư, thư ký, nhân viên tang lễ, người đưa đám chính ký.
Scrooge ký. Mà tên tuổi Scrooge nổi tiếng ở Sàn khoán[1] về
bất cứ thứ gì lão sờ vào. Marley già vì thế đã chết, chắc như đinh đóng cột.
Để ý nghe!
Tôi không có ý nói là mình biết, trong tầm hiểu biết của mình, thứ gì đó đặc biệt
chết chóc liên quan tới đinh đóng cột. Lẽ ra tôi phải bảo là đinh độp quách, bởi
đó mới được xem là thứ đồ sắt chết chóc nhất trong nghề này. Nhưng trí khôn của
tổ tiên ta nằm trong phép so sánh ấy; và đôi tay tội lỗi của tôi không dám chạm
vào nó, không cả nước sẽ tiêu tùng mất thôi. Vì thế, hãy cho phép tôi nhắc lại,
để nhấn mạnh là, Marley chết rồi, chắc như đinh đóng cột.
Scrooge có biết
lão chết không? Dĩ nhiên là có. Làm sao khác được? Scrooge và lão là bạn làm ăn
suốt từng ấy năm trời mà tôi chả biết là bao lâu nữa. Scrooge là người điều
hành duy nhất, quản lý duy nhất, ủy nhiệm duy nhất, thừa kế tài sản duy nhất, bạn
duy nhất, kẻ đưa đám duy nhất của Marley. Mà thậm chí Scrooge cũng chả lấy gì
làm buồn trước tin buồn kia, trừ việc tỏ ra là tay kinh doanh xuất sắc ngay
trong ngày đưa tang, tiến hành nó long trọng bằng một cuộc mặc cả rõ ràng.
Nhắc tới đám
tang Marley khiến tôi quay trở lại xuất phát điểm của mình. Marley chết rồi, chả
còn nghi ngờ gì nữa. Việc này phải hiểu cho rành rọt, không thì chuyện tôi sắp
kể ra đây chả có gì là hay ho. Nếu ta không tin chuyện cha Hamlet đã chết trước
khi vở kịch bắt đầu, thì việc ông ta đi dạo vào ban đêm, trong ngọn gió đông,
trên bờ dốc thoải, nhằm, theo nghĩa đen, làm kinh hồn bạt vía con trai mình, so
với chuyện một quý ông trung niên vội vàng nhỏm dậy lúc trời hôm khuya khoắt ở nơi
có gió hiu hiu thổi – như nghĩa trang Nhà thờ Thánh Paul chẳng hạn, thì đâu có gì
đặc biệt.
Scrooge không
bôi bỏ tên Marley già đi. Tên lão vẫn nằm đó, nhiều năm sau, trên biển hiệu văn
phòng: Scrooge và Marley. Tên hãng là Scrooge và Marley. Thi thoảng mấy tay mới
vào nghề có gọi tới cho Scrooge, lúc lại cho Marley, song Scrooge trả lời tuốt.
Tên nào với lão chả thế.
Ồ! Mà lão
chúa là trùm sò, Scrooge ấy! Một lão già tội lỗi tham lam, chụp giựt, vồ vập,
vơ vét, bóp nặn từng đồng từng cắc một! Khô cứng, sắc lẻm như đá lửa, mà không
thanh thép nào đập vào có thể làm tóe ra một tia lửa hào phóng; kín kẽ, tự lập,
và đơn độc như một con sò. Sự lạnh lẽo bên trong khiến thân hình già cả của lão
cô đặc lại, cái mũi khoằm khoặm thêm, đôi gò má quắt queo, dáng đi cứng đờ đờ;
khiến mắt lão đỏ quạch, cặp môi mỏng tái xanh; và làm lộ ra vẻ khôn lanh trong
giọng nói rin rít của lão. Vòng sương giá bao phủ đầu lão, lông mày lão, và cả
chiếc cằm thô cứng của lão nữa. Lão luôn mang thứ nhiệt độ lạnh lẽo ấy quanh
mình; lão đóng băng văn phòng mình trong những ngày đại thử; và chả thèm làm ấm
nó lên lúc Giáng sinh.
Nhiệt độ và
khí lạnh bên ngoài chả ảnh hưởng gì mấy tới Scrooge. Không hơi ấm nào làm lão nóng
lên, không giá lạnh nào làm lão rét được. Không ngọn gió nào rét róng bằng lão,
không trận tuyết nào khắc nghiệt bằng lão, không cơn mưa hối hả nào lạnh lùng dửng
dưng như lão. Thời tiết xấu chẳng biết lão ở đâu mà lần. Mưa tuôn, nước chảy,
tuyết lở, băng trôi mạnh nhất cũng chỉ hơn lão được một mặt. Đó là chúng “tuôn
chảy” hậu hĩ, chứ Scrooge thì chả bao giờ.
Không ai trên đường từng dừng lại, vui vẻ nhìn
lão bảo, “Ông Scrooge thân mến, ông có khỏe không? Khi nào qua chơi với tôi đây?”
Không gã ăn mày nào kỳ kèo xin lão ít bạc lẻ, không đứa trẻ con nào hỏi lão mấy
giờ rồi, không thằng đàn ông, ả đàn bà nào trong đời mình đi hỏi đường lão tới
chỗ này chỗ nọ. Ngay chó của người mù cũng tỏ ra biết lão; và khi thấy lão đi
qua, chúng bèn kéo chủ mình lánh vào sân trước hay hiên nhà; rồi vẫy đuôi như
muốn bảo, “Thà mù còn hơn có con mắt quỷ, ông chủ mờ mịt của tôi ạ!”
Nhưng Scrooge
quan tâm làm gì chứ? Lão thích thế mà. Vạch lối riêng trên đường đời tấp nập, cảnh
báo tất cả những gì cảm thông thương người vui lòng tránh xa, là điều mà đối với
lão, đám người hiểu biết phải gọi là “sướng mê ly”.
Một ngày nọ
– tức Đêm trước Giáng sinh, một ngày tốt
lành trong toàn bộ số ngày tốt lành trong năm –
Scrooge già đang bận rộn trong văn phòng hãng. Trời lạnh lẽo, âm u, rét
cắt da cắt thịt, lại có cả mây mù: và lão có thể nghe thấy tiếng người ở bên
ngoài, vừa đi vừa thở phì phò, đập tay lên ngực áo, dậm chân xuống đá lát vỉa
hè để làm ấm người. Đồng hồ Thành phố vừa mới điểm ba tiếng, mà trời đã tối hù
– cả ngày cũng chả sáng sủa gì – vậy là đèn đuốc lập lòe nơi cửa sổ mấy văn phòng
gần đó, như những vệt bẩn hoe đỏ trên nền trời màu nâu đặc quánh. Mây mù tràn
qua các khe cửa, lỗ khóa, và dày đến độ, chỉ cách nhau có mảnh sân hẹp nhất, ta
cũng chỉ lờ mờ thấy mấy căn nhà đối diện. Cứ nhìn đám mây xám xịt rủ xuống, làm
mờ đi vạn vật thế kia, hẳn ta phải nghĩ thiên nhiên đã ở đâu đây, đang ùn ùn
kéo đến.
Cửa văn phòng
Scrooge để mở, để lão có thể quan sát viên thư ký, người đang ngồi trong cái
ngách nhỏ tối tăm, y như cái thùng, ghi chép thư từ. Scrooge có ít lửa sưởi,
nhưng lửa của viên thư ký còn nhỏ hơn, trông chả khác gì một hòn than. Song ông
ta nào dám xin thêm, vì Scrooge giữ thùng than trong phòng; và khi viên thư ký
cầm xẻng vào định lấy, thì lão đoán được
bèn giấu nhẹm nó đi. Thế là viên thư ký bèn lấy chiếc khăn choàng trắng, trùm
quanh người để làm ấm mình lên dưới ánh nến; nhưng dù ông ta có giàu trí tưởng
tượng đến đâu, thì cũng chả thấy ấm lên tí nào.
“Chúc bác Giáng sinh vui vẻ! Chúa cứu vớt bác!”
Một giọng nói vui vẻ cất lên. Đó là giọng cháu trai của Scrooge, người ùa vào
phòng nhanh đến nỗi giọng nói là thứ đầu tiên ta nghe thấy, rồi mới đến người.
“Chà!”
Scrooge bảo. “Bịp bợm!”
Chàng trai, đứa
cháu này của Scrooge, đã làm ấm mình bằng cách bước thật nhanh dưới bầu trời mù
mây giá rét, nhanh đến nỗi người nóng bừng cả lên; mặt hồng hào, đẹp đẽ; mắt lấp
la lấp lánh, hơi thở phả ra thành khói.
“Giáng sinh
mà bịp bợm á!” Cháu của Scrooge kêu lên. “Cháu chắc bác không có ý đó chứ?”
“Ta có đấy,”
Scrooge đáp. “Giáng sinh vui vẻ á! Mà anh có quyền gì vui mới được chứ? Vì lý
do gì vui mới được chứ? Anh còn nghèo mà.”
“Thôi nào,” cậu
cháu hoan hỉ đáp. “Vậy bác có quyền gì ủ ê đến là vậy? Vì lý do gì rầu rĩ đến là
vậy? Bác giàu rồi mà.”
Scrooge không
có sẵn câu trả lời lúc ấy, bèn kêu, “Chà” một lần nữa, rồi lại bảo, “Bịp bợm”.
“Đừng cáu, bác
ơi!” cậu cháu bảo.
“Ta làm sao
khác được,” ông bác đáp, “khi sống trong thế giới đầy kẻ ngốc thế này? Giáng
sinh vui vẻ á! Cút ngay cái Giáng sinh vui vẻ ấy đi! Giáng sinh với anh là thời
gian nào nếu chả phải lúc thanh toán hóa đơn mà không có tiền nộp; thấy mình
già đi một tuổi, mà không dư ra được một giờ; là lúc cân đối sổ sách, trưng ra
trước mặt từng ấy thứ chết dí suốt mười hai tháng trời qua hả? Nếu làm theo ý
ta,” Scrooge hằn học bảo, “thì mấy thằng đần đi loanh qua loanh quanh mở mồm ra
bảo ‘Giáng sinh vui vẻ’ sẽ bị cho vào nồi luộc chung với bánh pudding Giáng
sinh[2], rồi
đem chôn với cọc ô rô đâm qua tim. Vậy đó!”
“Bác ơi là bác!”
Cậu cháu nài nỉ.
“Ông cháu à!”
Ông bác lạnh lùng đáp lại, “hãy giữ Giáng sinh theo cách của mình, và để ta giữ
nó theo cách của ta.”
“Giữ nó á!”
Cháu trai Scrooge lặp lại. “Nhưng bác có giữ đâu.”
“Vậy hãy để mặc
ta với nó,” Scrooge bảo. “Chúc anh Giáng sinh mọi sự tốt lành! Mọi sự nó đã làm
cho anh ấy!”
“Có nhiều thứ
cháu thấy rất tốt, dù chả đem lại lợi lộc gì, cháu dám nói thế đấy,” cậu cháu
đáp lời; “Giáng sinh là một trong số ấy. Song cháu chắc mình, khi nó đến gần,
luôn nghĩ về nó như một khoảng thời gian tốt lành – bất luận sự sùng kính là do
cái tên hay nguồn gốc, nếu bất cứ thứ gì thuộc về nó có thể tách bạch ra khỏi đấy;
khoảng thời gian của tình thân ái, lòng từ tâm, sự tha thứ, sự tử tế; khoảng thời
gian duy nhất mà cháu biết, trong cả năm dài, khi đàn ông, đàn bà dường như tâm
đầu ý hợp mở toang cõi lòng khép kín của mình ra, nghĩ tới những người kém cỏi
hơn mình, như thể họ thật sự là bạn bè đồng cam cộng khổ, chứ không phải sinh vật
thuộc giống nòi nào khác mà ta tình cờ gặp trên mấy đoạn đường đi. Vì thế, bác ạ,
dù nó chả nhét vàng bạc gì vào túi cháu, thì cháu vẫn tin Giáng sinh đã và sẽ mang điều tốt lành tới cho mình; vậy cháu mới bảo, Chúa phù hộ
Giáng sinh!”
Viên thư ký
ngồi trong cái thùng của mình vô tình vỗ tay. Chợt nhận ra làm thế không phải
lúc, ông ta bèn cời lửa, và làm tắt luôn luồng sáng cuối cùng.
“Tôi mà nghe thêm
tiếng nào từ phía anh,” Scrooge bảo,
“thì anh sẽ ngồi không ôm Giáng sinh mà xơi đấy! Còn ông thật là một tay hùng
biện giỏi, thưa quý ông,” lão quay lại phía cậu cháu, nói thêm. “Ta tự hỏi sao
ông không đi làm ông nghị đi.”
“Đừng giận chứ
bác. Thôi! Mai tới chỗ bọn cháu ăn tối nhé.”
Scrooge bảo sẽ
tới – Ừ, tới thật mà. Lão kéo dài giọng, rồi bảo rằng sẽ tới khi nào gặp cậu
cháu ở tận cùng thế giới ấy.
“Sao vậy?”
Cháu Scrooge kêu lên. “Sao lại thế cơ chứ?”
“Vậy sao anh
cưới vợ?” Scrooge hỏi.
“Vì yêu.”
“Vì yêu !”
Scrooge làu bàu, như thể đó là thứ duy nhất trên quả đất nghe còn ngớ ngẩn hơn
một Giáng sinh vui vẻ vậy. “Thôi chào nhé!”
“Mà bác ơi, bác
có bao giờ tới thăm cháu trước khi chuyện đó xảy ra đâu. Vậy sao giờ lại lấy nó
làm lý do cho việc không tới chơi chứ?”
“Chào nhé,”
Scrooge bảo.
“Cháu chả muốn
thứ gì từ bác; cháu không xin xỏ gì bác; vậy sao mình không làm bạn được nhỉ?”
“Chào anh!”
Scrooge bảo.
“Cháu xin lỗi,
bằng cả tấm lòng, khi thấy bác kiên quyết thế. Chúng ta chưa bao giờ bàn cãi về
việc cháu bày tiệc cả. Nhưng cháu đã thử bày tỏ lòng tôn kính Giáng sinh của
mình, và sẽ giữ tinh thần Giáng sinh vui vẻ tới phút chót. Vậy nên, Giáng sinh
Vui vẻ nghe bác!”
“Chào anh,”
Scrooge bảo.
“Và một Năm mới
Bình an!”
“Chào!”
Scrooge bảo.
Song cậu cháu
rời phòng mà chả hề bực dọc. Cậu dừng lại phía cửa ngoài để gửi lời chúc tới
viên thư ký, người dù rất cóng, vẫn ấm lòng hơn Scrooge; vì ông ta thân mật đáp
lại lời chúc ấy.
“Lại thêm thằng
nữa,” Scrooge, nghe lỏm viên thư ký nói, liền lẩm bẩm bảo: “thư ký của ta, ăn lương
15 shilling một tuần, có vợ con đùm đề, lại đi chúc Giáng sinh cơ đấy. Ta nghỉ
làm vào Bedlam[3] ở mất thôi.”
Thằng điên
này, vừa tiễn cháu của Scrooge ra, lại đón hai kẻ khác vào. Họ là hai quý ông béo
tốt, dễ thương, đã bỏ mũ, đang đứng trong phòng Scrooge. Họ cầm bút viết, sổ
sách, cúi đầu chào lão.
“Hãng của
Scrooge và Marley, tôi tin là thế,” một trong hai quý ông chỉ vào danh sách của
mình, nói. “Tôi hân hạnh được tiếp chuyện với Ông Scrooge, hay Ông Marley đây?”
“Marley chết
được bảy năm rồi,” Scrooge đáp. “Ông ấy mất bảy năm về trước, vào đúng đêm này.”
“Chúng tôi tin
sự hào phóng của ông ấy được cộng sự còn sống của mình thể hiện tốt,” quý ông
kia nói, chìa ra thư ủy nhiệm.
Dĩ nhiên rồi;
hai lão từng là bạn tâm giao mà. Nhưng nghe tới từ ‘sự hào phóng’ đầy điềm gở ấy
thì Scrooge cau mày, lắc đầu, và đẩy tờ thư ủy nhiệm trở lại.
“Vào mùa này
trong năm, thưa Ông Scrooge,” quý ông nọ đáp, tay cầm cây bút lên, “thường ai
cũng mong chúng ta sẽ giúp đỡ một ít cho người nghèo khó, những kẻ phải chịu khổ
trong lúc này. Nhiều nghìn người đang cần nhu yếu phẩm; hàng trăm nghìn người
đang cần có những tiện ích tối thiểu, thưa ông.”
“Bộ hết nhà
tù rồi sao?” Scrooge hỏi.
“Nhiều nhà tù
lắm ạ,” quý ông nọ đáp, đặt bút xuống.
“Trại tế bần
bên Hội đoàn nữa chi?” Scrooge gặng hỏi. “Đám đó còn hoạt động hay không?”
“Còn. Còn đấy
ạ,” quý ông kia đáp lời. “Tôi ước gì mình có thể bảo chúng ngừng hoạt động cho
rồi.”
“Luật Lao dịch
và Luật Người nghèo[4] vẫn chạy đều cả chứ?”
Scrooge hỏi.
“Cả hai đều bận
rộn, thưa ông.”
“Ố! Vậy tôi
e, từ những gì mấy ông nói lúc đầu, thì có thứ gì đó khiến chúng ngừng hoạt động
cả rồi,” Scrooge đáp. “Tôi rất vui nếu mấy ông nói cho tôi biết.”
“Vì thấy mấy thứ
đó hiếm khi đem lại cho đám đông niềm vui tinh thần và thể chất Thiên chúa giáo,”
quý ông nọ đáp lời, “nên chúng tôi đang cố gây quỹ để mua ít đồ ăn thức uống
cho người nghèo, cả đồ ấm nữa ạ. Chúng tôi chọn thời điểm này, vì đây là lúc,
trong mọi lúc, sự Thiếu Thốn được cảm nhận rõ ràng, còn sự Dư dả cũng bày ra hoan
hỉ. Chúng tôi ghi cho ông bao nhiêu đây?”
“Không gì hết!”
Scrooge đáp.
“Ông không muốn
đề tên à?”
“Tôi muốn
mình được yên,” Scrooge bảo. “Thưa quý ông, vì mấy ông hỏi tôi muốn gì, nên đó
là câu trả lời của tôi. Tôi không vui khi Giáng sinh đến, và không muốn bỏ tiền
cho bọn người lười biếng mua vui. Tôi giúp tiền cho mấy tổ chức mà tôi đã kể trên
– riêng chúng là đủ lắm rồi; còn ai nghèo quá thì phải đi đến đấy.”
“Nhiều người
không thể đến đấy; họ thà chết còn hơn.”
“Nếu họ muốn
chết, thì cứ để họ làm thế,” Scrooge đáp, “giảm bớt dân số thừa đi. Vả lại, xin
lỗi nhé, tôi không biết chuyện này đâu”
“Nhưng ông phải
biết chứ,” một quý ông kêu lên.
“Không phải
việc của tôi,” Scrooge đáp trả. “Một người hiểu chuyện kinh doanh của mình,
không tham gia vào chuyện của người khác là đủ lắm rồi. Việc của tôi mất nhiều thì
giờ lắm. Chào nhé, các quý ông!”
Thấy rõ là có
đeo đuổi cũng chả được gì, hai quý ông nọ đành rút lui. Scrooge quay lại với việc
của mình, lấy làm phởn chí, và tỏ vẻ bông lơn hơn thường lệ.
Trong khi đó
mây mù và bóng tối dày đặc, đến nỗi người ta chạy quanh thành hàng với ngọn đèn
lấp lóe trên tay, nhận làm chân soi đường chỉ lối cho các cỗ xe ngựa. Tháp chuông
cổ kính của nhà thờ, nơi cái chuông cũ kỹ thô lỗ luôn ranh mãnh nhòm ngó vào
phòng Scrooge qua khung cửa kiểu Gothic trên tường, giờ biến mất, đánh chuông cứ
15 phút và từng tiếng một trong mây, để lại đằng sau những rung động run rẩy,
như thể răng nó va lập cập trong cái đầu bị đóng băng ở tuốt trên cao. Cái lạnh
thật khắc nghiệt. Trên phố chính, ở góc sân, mấy chú lao công đang sửa đường ống
khí, có nhóm một lò lửa lớn, quanh đó đám đàn ông, trẻ trai ăn mặc rách rưới tụ
tập lại: hơ tay, háy mắt khoan khoái nhìn ngọn lửa. Cống xả thải để mặc không đậy
điệm, nước tràn ra ngoài lập tức đông đặc lại, hóa thành thứ băng thù ghét con
người. Ánh sáng ở mấy cửa hiệu, nơi cành và quả ô rô kêu tanh tách dưới sức
nóng của ngọn đèn quầy hàng, khiến những gương mặt xanh xao lướt qua hồng hào hẳn
lên. Tiệm bán gia cầm và rau quả trở thành chốn đùa vui: một hoạt cảnh huy
hoàng tráng lệ là vậy, nên người ta khó tin được là mấy nguyên tắc chán phèo
như mặc cả, đại hạ giá lại phát huy tác dụng ở đấy. Ngài Thị trưởng, trong
thành trì dinh thự đồ sộ của mình, lệnh cho 50 đầu bếp và quản gia bày tiệc
Giáng sinh sao cho xứng tầm thị trưởng; thậm chí chú thợ may nhỏ thó, người vừa
bị phạt năm xi-linh thứ Hai tuần rồi vì tội say xỉn, gây lộn ngoài đường, cũng đang
đảo món bánh pudding Giáng sinh dành cho bữa mai trên gác xép, trong khi cô vợ
gầy gò ôm đứa nhỏ lượn ra phố mua thịt bò.
Trời càng lúc
càng thêm mù mịt, lạnh lẽo! Cái lạnh cắt da cắt thịt, thấu buốt ruột gan, tê cóng
cả chân tay. Nếu Thánh Dunstan[5] tốt
lành mà dùng thời tiết này chọc vào mũi Quỷ sứ, thay vì dùng thứ vũ khí quen
thuộc, thì hắn hẳn sẽ phải gầm lên khiếp đảm. Một chàng trai có cái mũi măng sữa
hiếm hoi, bị cái lạnh đói khát gặm nhấm, nhá nhẩm, như thể cục xương bị đàn chó
gặm, cúi xuống nhòm vào lỗ khóa nhà Scrooge, đề nghị hát tặng lão một ca khúc Giáng
sinh; nhưng ngay khi những âm thanh đầu tiên cất lên, “Chúa phù hộ ngài, quý
ông vui vẻ ơi; Chúc ngài không còn gì buồn phiền nữa hết!” thì Scrooge vớ lấy
cây thước kẻ vung mạnh đến nỗi chàng ca sĩ sợ quá ù té chạy, để cái lỗ khóa lại
cho mây mù, và đám sương giá còn thân thiện hơn lão già kia.
Rốt cuộc cũng
đã tới giờ đóng cửa văn phòng hãng. Với tâm địa xấu xa, Scrooge rời ghế, ngầm
thừa nhận sự thật ấy với viên thư ký đang chờ đợi nơi cái thùng, người ngay lập
tức thổi tắt ngọn nến, đội mũ lên đầu.
“Tôi cho là
anh muốn nghỉ ngày mai, đúng không?” Scrooge bảo.
“Nếu thấy tiện,
thưa ông.”
“Thế không tiện,
không công bằng đâu,” Scrooge bảo. “Nếu tôi buộc phải cắt nửa đồng crown[6] vì
chuyện đó, thì anh sẽ nghĩ mình bị bạc đãi đúng không?”
Viên thư ký
cười nhạt.
“Ngược lại,”
Scrooge tiếp, “anh đâu có nghĩ là tôi
bị bạc đãi nếu trả cho anh cả ngày lương trong khi anh chả làm việc gì.”
Viên thư ký bảo
đây là dịp duy nhất trong năm.
“Cái cớ tồi tệ
để móc túi một người vào mỗi 25 tháng 12!” Scrooge bảo, cài nút chiếc áo khoác
to tướng của mình lên tới cằm. “Nhưng tôi cho là anh sẽ làm cả ngày đấy. Mai đến
sớm nhé.”
Viên thư ký hứa
sẽ đến; còn Scrooge làu bàu đi ra. Văn phòng lập tức được đóng lại, và viên thư
ký, với đầu chiếc khăn choàng dài lòng thòng đến tận eo (vì ông ta chả thể khoe
khoang về chiếc áo khoác to tướng nào), bèn tới cầu trượt trên phố Cornhill[7], nơi
cuối đường có một đám trẻ trai, trèo lên tuột xuống 20 lần để đón mừng Đêm trước
Giáng sinh, rồi vắt chân lên cổ chạy một mạch về nhà bên quận Camden, để chơi
trò bịt mắt bắt dê.
Scrooge ăn bữa
tối buồn thảm trong quán ăn buồn thảm quen thuộc của mình; sau đó đọc hết mớ
báo chí, tiêu khiển với mớ tài khoản sổ sách cho hết tối, rồi về nhà đi ngủ. Lão
sống trong loạt buồng trước kia thuộc về viên cộng sự đã mất của mình. Chúng là
một loạt buồng đôi ảm đạm, nằm trong tòa nhà thấp tầng phía trước có một mảnh
sân, nơi có rất ít việc để tồn tại cái mảnh sân ở đấy, ít đến nỗi chả ma nào
thèm léo hánh tới khi tòa nhà còn mới, chơi trốn tìm với các tòa nhà khác, và
quên mất lối ra. Giờ nó cũ kỹ và tồi tàn lắm; không ai sống ở đó ngoại trừ
Scrooge, các buồng khác thì đều mở ra làm văn phòng cả. Sân thì tối đến độ ngay
cả Scrooge, người biết rõ từng hòn đá một, cũng xin miễn cho vụ mò đường. Sương
giá phủ đầy cánh cổng cũ đen đúa của tòa nhà, như thể Thần thời tiết đang ngồi buồn
thương nơi ngưỡng cửa.
Giờ hiển
nhiên ta thấy cái vòng gõ cửa chả có gì đặc biệt, trừ việc nó rất lớn. Hiển
nhiên Scrooge cũng đã thấy nó, ngày cũng như đêm, suốt thời gian sống ở đây; mà
bản thân Scrooge cũng thấy rất ít những gì có thể được xem là hay ho, cuốn hút
mình, hệt như bất cứ gã đàn ông nào ở Thành Luân Đôn này, bao gồm – từ này gớm
lắm đấy – cả hội đồng thành phố, hội đồng phân khu, thành viên phường hội. Nên
nhớ là Scrooge chả thèm nghĩ tới Marley tẹo nào từ hồi chiều, khi nhắc lại cái
chết cách đây bảy năm của cộng sự, tới giờ. Vậy nên hãy để ai đó giải thích cho
tôi, nếu ông ta có thể làm thế, việc làm sao mà Scrooge, đang tra chìa vào ổ
khóa, thì thấy trong cái vòng gõ cửa, dù không trải qua sự biến đổi nào – giờ không
còn là nó nữa, mà là mặt Marley.
Mặt Marley.
Nó không phải cái bóng không thể xuyên thấu như mọi thứ khác trong vườn, mà là
thứ ánh sáng ảm đạm, hệt như tôm hùm thiu thối dưới hầm rượu tối. Nó không giận
dữ hay hung ác, mà chỉ nhìn Scrooge hệt như Marley đã nhìn: với đôi mục kỉnh ma
bị đẩy lên phía trước vầng trán ma. Tóc nó dựng đứng một cách kỳ lạ, như thể bị
một luồng hơi nóng thổi qua; và dù mở to, cặp mắt lại hoàn toàn bất động. Cộng
với màu xám xanh của nó, hồn ma trông thật khủng khiếp; nhưng sự đáng sợ đó bất
chấp cả khuôn mặt, vượt quá mức kiểm soát, chứ không phải một phần vẻ biểu cảm
của nó.
Khi Scrooge
chăm chú nhìn lại hiện tượng trên, thì nó lại biến thành cái vòng gõ cửa.
Quả thật
không đúng nếu bảo là lão không ngạc nhiên, hay máu trong người lão không sôi
lên vì cảm xúc kinh khủng nào đó vốn xa lạ với lão từ bé tới giờ. Nhưng lão vẫn
đặt tay lên chiếc chìa vừa mới buông ra, vặn mạnh nó, bước vào phòng và thắp nến
lên.
Lão có dừng lại, phân vân một chút, trước
khi đóng cửa; và lão có cẩn thận nhìn
lại phía sau, như nửa tin nửa ngờ là sẽ bị cái đuôi tóc của Marley thò ra nơi
hành lang dọa cho mẻ nữa. Nhưng chả có gì sau cánh cửa, trừ mớ bù loong, đinh
vít giữ cho cái vòng gõ nằm đó, vậy là lão kêu lên, “Xì, xì!” rồi đóng sầm cửa
lại.
Tiếng cửa
đóng ầm vang khắp nhà, nghe như tiếng sấm. Mỗi căn buồng bên trên, và mọi ngóc
ngách hầm rượu của nhà buôn ở bên dưới, đều như dội lại từng phần tiếng động
đó. Scrooge không phải người sợ tiếng dội. Lão khóa cửa, băng qua hành lang, leo
lên lầu: lão đi thật chậm, vừa đi vừa che ngọn nến của mình.
Bạn có thể vội
vàng bảo rằng đi lên cầu thang cũ thì y như lái một cỗ xe có sáu người ngồi ở
trên, hay như duyệt một Đạo luật Quốc hội vừa non tay vừa dở hơi là cùng; nhưng
ý tôi lại bảo bạn rằng đi lên cái cầu thang ấy thì y như ngồi trên một chiếc xe
tang, mà nhìn rộng ra, thì trục xe hướng về phía bức tường, còn cửa xe hướng về
phía lan can: nói vậy đi cho dễ hình dung. Có nhiều khoảng không, nhiều căn
phòng để trống về hướng ấy; và đó có lẽ là lý do tại sao Scrooge nghĩ lão nhìn
thấy một chiếc xe tang di động đang lờ mờ ở phía trước. Nửa tá đèn thắp ngoài đường
chưa chắc đã soi tỏ lối vào, vậy nên bạn có thể hiểu là Scrooge đang chìm trong
bóng tối mịt mù.
Scrooge cứ thế
đi lên, không mảy may quan tâm gì đến việc ấy. Bóng tối rẻ rề, mà Scrooge thì thích
thế. Nhưng, trước khi đóng cánh cửa nặng nề lại, lão rảo qua các buồng xem mọi
thứ có ổn cả không. Lão nhớ rõ khuôn mặt kia đến độ rất muốn làm thế.
Phòng khách,
phòng ngủ, nhà kho. Tất cả đều ổn thỏa. Không ai ở dưới gầm bàn, gầm ghế
xô-pha; ngọn lửa nhỏ cháy trong lò; muôi thìa, bồn rửa y nguyên; và cái nồi con
nấu cháo thì đặt trên ngăn hâm lại (Scrooge bị cảm lạnh nhức đầu). Không ai ở
dưới gầm giường; trong tủ áo; không ai bận áo ngủ của lão, thứ treo trên tường
với dáng vẻ đáng ngờ. Nhà kho vẫn bình thường. Khung chắn lò sưởi cũ, đôi giày
cũ, hai cái giỏ đựng cá, cái giá ba chân để đặt chậu rửa mặt, và que cời lửa vẫn
y nguyên.
Rất hài lòng,
lão đóng cửa buồng lại, tự nhốt mình bên trong; tức là nhốt mình hai lần ở bên
trong, vốn không phải thói quen của lão. Sau khi an toàn trước mẻ hú hồn vừa rồi,
lão cởi cà-vạt, khoác lên mình chiếc áo ngủ, mang đôi dép ngủ, đội lên đầu chiếc
mũ ngủ, rồi ngồi xuống trước ngọn lửa chén món cháo của mình.
Lửa trong lò
thật ra rất nhỏ; chả là gì trong một đêm khắc nghiệt đến thế. Lão buộc phải ngồi
gần nó, nghiền ngẫm hồi lâu, trước khi có thể cảm nhận chút ấm áp tỏa ra từ nguồn
năng lượng nhỏ bé ấy. Đó là một cái lò sưởi cũ, được một thương gia Hà Lan nào
đấy xây từ rất lâu rồi, lát toàn bằng gạch Hà Lan trông lạ mắt, trang trí theo
kiểu minh họa điển tích Kinh Thánh. Có cảnh về Cain và Abel, con gái các
Pharaoh, Nữ hoàng Sheba, các thiên sứ giáng trần trong những đám mây nom như những
chiếc giường làm bằng lông vũ, tổ phụ Abraham, Belshazzar, các tông đồ ra khơi
trên những con thuyền sâu đáy, hàng trăm nhân vật thu hút ý nghĩ lão; và khuôn
mặt của Marley, đã chết bảy năm rồi, hiện ra như cây gậy của Nhà tiên tri, nuốt
chửng hết tất cả. Nếu mỗi viên gạch trơn láng kia ban đầu mà trống không, thì với
khả năng định hình những mảnh ghép rời rạc ý nghĩ của lão trên đó, hẳn mỗi viên
phải mang hình cái đầu của Marley.
“Bịp bợm!”
Scrooge kêu lên; rồi rảo bước quanh buồng.
Sau vài lượt
tới lui, lão lại ngồi xuống ghế. Lúc ngả đầu ra sau, lão tình cờ liếc qua cái
chuông, một cái chuông không dùng đến, được treo trong phòng, vì lý do nào đó
mà giờ chả ai còn nhớ, được nối với căn buồng trên tầng cao nhất của tòa nhà. Và
thật kinh ngạc, khiếp sợ làm sao, một sự khiếp sợ kỳ lạ, không giải thích nổi,
khi lão nhìn thấy chiếc chuông bắt đầu rung. Ban đầu nó rung nhẹ đến nỗi hầu
như không kêu thành tiếng; nhưng chả mấy chốc nó reo to, và mọi cái chuông
trong tòa nhà đều thế.
Chuyện đó xảy
ra đâu chừng nửa phút, hay một phút, nhưng cứ như cả giờ đồng hồ. Đột nhiên
toàn bộ số chuông ngừng kêu, hệt như khi chúng bắt đầu. Rồi tiếng loảng xoảng ở
tít bên dưới nối tiếp tiếng chuông, như ai đó đang kéo lê sợi xích nặng trên những
chiếc thùng rượu dưới hầm của tay nhà buôn vậy. Scrooge chợt nhớ đã được nghe bảo
là ma trong mấy căn nhà bị ám thường hay đeo xích lắm.
Cửa tầng hầm
bật mở cái rầm, rồi lão nghe thấy tiếng động to hơn ở các tầng bên dưới; rồi
trên cầu thang; rồi tới thẳng buồng lão.
“Lại bịp!”
Scrooge nói. “Mình chả tin chuyện này.”
Dù vậy mặt
lão biến sắc khi tiếng động đó, không hề dừng lại, mà đi qua cánh cửa nặng nề,
lướt vào phòng ngay trước mắt lão. Khi nó vào, ngọn lửa đang tàn lụi chợt bùng
lên, như thể kêu to, “Tôi biết hắn! Là hồn ma Marley đó!” rồi nhỏ lại.
Khuôn mặt cũ:
y hệt như cũ. Marley với đuôi tóc, áo chẽn, quần bó, giày ủng thường dùng; ngù
bông cột nơi chòm râu, y như cái đuôi tóc, rồi áo đuôi tôm, mớ tóc trên đầu. Sợi
xích lão kéo theo bị khóa lại ở giữa. Đó là sợi xích dài và quấn quanh người
lão hệt như một cái đuôi; và (khi Scrooge nhìn gần thì thấy) nó được làm từ đám
tráp đựng tiền, chìa khóa, ổ khóa, sổ cái, chứng từ, ví tiền nặng trĩu, và đều
bằng thép cả. Thân hình lão trong suốt; đến nỗi Scrooge nhìn lão, thì thấy luôn
hai cái nút đính đằng sau chiếc áo lão đang mặc.
Scrooge thường
nghe người ta bảo là Marley không có ruột, nhưng lão chả bao giờ tin cho tới tận
lúc này.
Mà thậm chí
lúc này đây, lão cũng chả tin nổi nữa. Dù lão nhìn qua lại mấy lần hồn ma, và rành
rành thấy nó đứng đực ra đấy; dù lão cảm thấy luồng khí lạnh tỏa ra từ cặp mắt
lạnh lẽo chết chóc của nó; nhận ra từng đường dệt của chiếc khăn tay xếp lại được
quấn quanh đầu cổ nó, thứ trước đó lão chưa kịp nhìn ra; thì lão vẫn ngờ vực,
và tìm cách bác bỏ giác quan của mình.
“Giờ sao
nào!” Scrooge bảo, cay độc và lạnh lùng như mọi khi. “Anh muốn gì ở tôi nào?”
“Nhiều lắm!”
– Giọng của Marley, chả còn nghi ngờ gì nữa.
“Anh là ai?”
“Hỏi xem tôi đã là ai đi.”
“Vậy anh đã là ai?” Scrooge cất cao giọng hỏi.
“Anh, đặc biệt vì cái bóng này.” Lão định nói “với cái bóng này,” nhưng kịp thay từ cho phù hợp.
“Lúc còn sống
tôi từng là cộng sự của anh, Jacob Marley.”
“Anh – anh ngồi
xuống được không?” Scrooge hỏi, nhìn hồn ma đầy vẻ nghi ngờ.
“Được.”
“Vậy ngồi
đi.”
Scrooge hỏi
thế, là vì lão không biết liệu một hồn ma trong suốt có ngồi xuống được hay không;
và thấy là, trong một sự việc khó có thể xảy ra, thì lời giải thích gây lúng
túng lại hay cần đến. Nhưng Hồn ma ngồi xuống phía đối diện lò sưởi, như thể
quen với việc đó từ rất lâu rồi.
“Anh không
tin tôi,” Hồn ma bảo.
“Tôi không
tin,” Scrooge đáp.
“Do đâu anh thấy
tôi nếu chả phải do giác quan của anh mà ra?”
“Tôi không biết,”
Scrooge đáp.
“Sao anh nghi
ngờ giác quan của mình thế?”
“Là vì,”
Scrooge bảo, “một vật tí teo cũng ảnh hưởng tới chúng. Dạ dày không ổn là chúng
hỏng. Anh có thể chén phải ít thịt bò, chút mù tạt, mẩu phó mát khó tiêu, miếng
cà chua tai tái. Dù anh có là thứ quái quỷ gì đi nữa, thì có khi do tôi xơi nhiều
nước sốt quá chứ chả phải hồn ma bóng quế gì.”
Scrooge không có thói quen tếu táo, trong thâm
tâm cũng chẳng muốn đùa vui. Sự thật là, lão đang cố tỏ ra ranh ma, nhờ đó làm xao
lãng sự chú tâm và giảm bớt sự kinh hãi của chính mình; vì giọng nói của hồn ma
khiến lão lạnh cả xương sống.
Im lặng ngồi
nhìn cặp mắt đờ đẫn bất động ấy được một lúc, Scrooge chịu hết nổi. Sự tồn tại
của bóng ma có cái gì đó thật khủng khiếp, bên cạnh bầu không khí quái đản của nó.
Scrooge không thể tự mình cảm nhận ra, nhưng rõ là thế; dù Hồn ma ngồi hoàn
toàn bất động, thì tóc tai, đuôi áo, cái ngù bông vẫn bay phần phật như bị hơi
nóng trong lò thổi qua.
“Anh thấy cây
tăm này không?” Scrooge hỏi, nhanh chóng quay lại phản pháo, vì lý do vừa nêu;
và ước ao, dù chỉ một giây, có thể tránh cái nhìn lạnh tanh của bóng ma nọ.
“Thấy,” Hồn
ma đáp.
“Anh có nhìn
nó đâu,” Scrooge bảo.
“Nhưng tôi thấy,”
Hồn ma đáp, “dù không nhìn.”
“Ồ!” Scrooge
đáp trả, “tôi phải nuốt trôi điều này, và sống nốt quãng đời còn lại bị đám yêu
tinh quỷ sứ quấy rầy, tất cả đều do tôi bịa đặt ra. Bịp bợm, tôi bảo anh thế đấy;
bịp tất!”
Đến đây thì hồn
ma rú lên một tiếng ghê rợn, và lúc lắc sợi xích với tiếng ồn thật thê thảm, hãi
hùng, đến nỗi Scrooge phải nắm chặt thành ghế, để khỏi ngã lăn ra bất tỉnh. Nhưng
lão còn khiếp vía hơn khi bóng ma tháo chiếc khăn quấn quanh đầu ra, như thể quấn
nó trong nhà thì bức quá, và cái hàm dưới của nó liền trễ ngay xuống ngực!
Scrooge ngã
khuỵu gối, lấy tay che mặt.
“Trời ơi!”
lão kêu lên. “Hình bóng ghê sợ kia, sao ngươi làm phiền ta vậy?”
“Này con người
của thế giới trần tục!” Hồn ma đáp lại, “ngươi đã tin ta chưa?”
“Ta tin,”
Scrooge đáp. “Phải tin thôi. Nhưng vì sao hồn ma bóng quế đi lại trên mặt đất,
vì sao chúng tìm đến chỗ ta?”
“Cái đó do từng
người,” Hồn ma đáp, “mà linh hồn hắn có đi đi lại lại giữa đám bằng hữu, và bay
xa bay rộng hay không; nếu lúc còn sống, linh hồn hắn không chịu đi đâu, thì sau
khi chết nó sẽ bị kết tội. Nó phải chịu cái án lang thang vất vưởng khắp thế
gian này – ôi, thương thay cái thân ta! – và chứng kiến những điều nó không thể
sẻ chia, mà lẽ ra phải sẻ chia và biến nó thành niềm vui khi còn sống!”
Bóng ma lại
rú lên, lúc lắc sợi xích và siết chặt tay mình.
“Ngươi bị
xích,” Scrooge run rẩy bảo. “Nói cho ta biết tại sao đi?”
“Ta mang sợi
xích do chính tay ta rèn ra khi còn sống,” Hồn ma đáp. “Ta làm từng mắt xích của
nó, từng phân một; ta tự mình quấn nó vào người, tự mình cả đấy. Ngươi có thấy
lạ không?”
Scrooge càng
lúc càng run hơn.
“Hay ngươi
cũng biết,” Hồn ma nói tiếp, “sức nặng và độ dài cuộn xích mà ngươi sẽ phải mang?
Nó đã nặng và dài bằng ngần này cách đây bảy mùa Giáng sinh rồi. Từ đó tới giờ
ngươi đã vất vả rèn thêm nó. Đó là sợi xích nặng khủng khiếp!”
Scrooge liếc
nhìn bóng của mình trên sàn, lo sẽ thấy mình bị quấn bởi một sợi xích sắt dài 50,
60 sải, nhưng lão chẳng thấy gì.
“Jacob!” lão
vật nài kêu. “Jacob Marley già, bảo tớ biết thêm đi! Nói lời an ủi tớ đi, nào
Jacob!”
“Tớ chả có gì
để nói cả,” Hồn ma đáp lại. “Thứ ấy từ nơi khác đến, Ebenezer Scrooge ạ, được người
khác mang tới cho những kẻ khác nhau. Tớ chả thể bảo cậu điều mình muốn. Tớ được
phép nói rất ít. Tớ không thể ngơi nghỉ, không thể ở lại, không thể nấn ná ở bất
cứ đâu. Hồn tớ khi xưa chưa từng đi quá văn phòng hãng – nhớ lời tớ nhé; lúc sống
hồn tớ có bao giờ lượn quá ranh giới chỗ đổi chác tiền bạc của bọn mình đâu; nên
giờ những chuyến hành trình mệt lử cứ chờ tớ phía trước!”
Scrooge có
thói quen khi nào nghĩ lung thì đút tay vào túi quần. Nên khi ngẫm nghĩ về những
gì Hồn ma nói, lão lại làm thế, mà không cần ngước mắt lên nhìn hay nhấc đôi đầu
gối.
“Vậy chắc cậu
buồn lắm, Jacob nhỉ?” Scrooge bảo bằng cái vẻ thạo đời, dù có đôi chút nhún nhường,
kính trọng.
“Buồn chán
á!” Hồn ma lặp lại.
“Thì chết bảy
năm rồi còn gì,” Scrooge đăm chiêu bảo. “Mà đi đi lại lại suốt?”
“Đi lại suốt,”
Hồn ma đáp. “Chả nghỉ chả ngơi gì cả. Thật là đòn tra tấn liên tục đầy đớn
đau.”
“Cậu đi có
nhanh không?” Scrooge hỏi.
“Trên đôi
cánh của gió ấy,” Hồn ma đáp.
“Chắc cậu phải
lướt qua vô số nơi trong suốt bảy năm qua,” Scrooge bảo.
Hồn ma, nghe
thấy thế, lại rú lên, và khua sợi xích của mình trong sự im lặng chết chóc của
đêm khuya, khủng khiếp đến nỗi cả khu phố hẳn phải kêu gào về việc làm phiền.
“Ôi! Bị giam
cầm, cùm kẹp, bị hai lần xiềng xích,” bóng ma kêu khóc, “vì chả biết là, bao
công lao khó nhọc không ngừng nghỉ, do quỷ thần bỏ ra, cho thế gian này rồi sẽ
trôi cả vào vĩnh hằng, cho tới khi phần tốt đẹp mà thế gian có thể có, tiếp tục
được phát triển! Vì chả biết là, bất cứ linh hồn Thiên chúa giáo nào làm việc tử
tế trong giới hạn nhỏ bé của mình, dù đó là bất cứ việc gì, thì sẽ thấy đời sống
phàm tục của mình quá ngắn ngủi để chỉ giành giật lấy vô vàn những điều xa xỉ tiện
lợi! Vì chả biết là, không hối hận nào có thể sửa lại cơ hội trời phú cho cả đời
người đã bị dùng sai! Là thế đấy! Ôi tớ là thế đấy!”
“Nhưng cậu
luôn là tay kinh doanh giỏi mà Jacob,” Scrooge, kẻ bắt đầu nghiệm lại điều đó với
chính mình, ấp úng nói.
“Kinh doanh á!”
Hồn ma kêu lên, bóp chặt đôi tay lần nữa. “Con người là chuyện kinh doanh của tớ.
Ích lợi chung là chuyện kinh doanh của tớ; việc thiện nguyện, nhân từ, lòng độ
lượng, nhân đức, tất tần tật, đều là chuyện kinh doanh của tớ. Buôn bán chỉ là
giọt nước trong cả đại dương kinh doanh bao la của tớ!”
Nó nhấc sợi
xích lên cao chừng cánh tay, như thể đó là nguyên do cho tất cả nỗi buồn đau vô
ích của mình, rồi quật mạnh xuống đất.
“Thời điểm
này trong suốt cả năm,” hồn ma tiếp, “là lúc tớ khốn khổ nhất. Sao tớ lại đi lại
giữa đám bằng hữu với đôi mắt cụp xuống, chả bao giờ ngước lên nhìn Vì sao phước
lành đã dẫn đường Ba vua tới hang đá nghèo khổ cơ chứ? Chả có mái nhà nghèo khổ
nào lẽ ra đã soi đường dẫn lối tớ ư?”
Scrooge suy sụp
hẳn khi nghe hồn ma ca thán mãi thế, và bắt đầu run lẩy bẩy.
“Nghe này!” Hồn
ma rú lên. “Thời gian của tớ sắp hết.”
“Rồi rồi,”
Scrooge bảo. “Đừng khắc nghiệt với tớ thế! Đừng hoa hòe hoa sói nữa Jacob! Cầu
nguyện đi!”
“Làm sao mà tớ
hiện hình cho cậu thấy, tớ chả thể nói ra. Tớ đã ngồi đây, vô hình cạnh cậu, từ
lâu lắm rồi.”
Đó không phải
là ý dễ chịu cho lắm. Scrooge run lên, lau mồ hôi trán.
“Phần tớ hết thật
rồi,” Hồn ma nói tiếp. “Đêm nay tớ tới đây là để cảnh báo cậu, rằng vẫn còn một
cơ hội, hi vọng thoát khỏi kiếp nạn như tớ. Cơ hội và hi vọng do tớ mang tới,
Ebenezer ạ.”
“Cậu luôn là
bạn tốt của tớ,” Scrooge nói. “Cảm ơn nhé!”
“Cậu sẽ bị,”
Hồn ma nói tiếp, “ba hồn ma ám.”
Mặt Scrooge xụ
xuống gần bằng mặt Hồn ma.
“Đó có phải
là cơ hội và hi vọng mà cậu vừa nhắc tới không, Jacob?” lão hỏi bằng giọng ấp
úng.
“Chính nó.”
“Tớ – tớ nghĩ
mình không thích thế,” Scrooge bảo.
“Nếu không gặp
chúng,” Hồn ma đáp, “cậu không hi vọng tránh được con đường mà tớ đã đi đâu. Đợi
gặp hồn ma đầu tiên lúc chuông nhà thờ đánh một giờ nhé.”
“Tớ không gặp
ba con một lúc cho xong được sao, hở Jacob?” Scrooge gợi ý.
“Đợi gặp hồn
ma thứ hai vào đêm tiếp theo cũng vào giờ ấy. Con thứ ba, đến vào đêm kế tiếp khi
chuông nhà thờ vừa dứt tiếng thứ 12. Cậu không thấy tớ nữa đâu; và nhìn đi, vì mình
đấy, nhớ những gì đã xảy ra giữa hai ta!”
Nói xong những
từ ấy, bóng ma lấy cái khăn để trên bàn, quấn quanh đầu như trước. Scrooge biết
điều này qua tiếng lộc cộc mà răng rợ tạo ra khi đôi hàm được bó lại. Lão đánh
bạo ngước mắt nhìn lần nữa, và thấy vị khách siêu nhiên đang đứng đối mặt với mình,
người và tay bị xích quấn lấy.
Hồn ma bước giật
lùi; và mỗi bước nó đi, cửa sổ lại nâng lên một chút để khi nó vừa đến, thì cửa
sổ mở toang. Nó ra hiệu cho Scrooge đến gần, và lão làm theo. Khi họ còn cách
nhau hai bước, thì Hồn ma Marley giơ tay, bảo Scrooge không tiến lại gần hơn nữa.
Scrooge ngừng lại.
Chả phải do
ngoan ngoãn, nghe lời mà là do ngạc nhiên, khiếp sợ, nên khi Marley giơ tay ra,
Scrooge cảm nhận được những tiếng ồn lộn xộn trong không trung; những âm thanh
rời rạc của lời than van, hối tiếc; tiếng khóc của niềm đau và sự tự buộc tội
mình không thốt nên lời. Hồn ma, sau một hồi nghe ngóng, liền hòa vào khúc tang
ca buồn thảm ấy; rồi trôi vào đêm tối đen ngòm, ảm đạm.
Scrooge theo chân
Hồn ma ra tới cửa sổ; lòng quá đỗi tò mò. Lão nhìn ra ngoài.
Không trung đầy
những hồn ma, bay lượn đó đây không ngừng nghỉ, vừa bay vừa khóc than. Mỗi con
lại mang xích hệt như Hồn ma Marley; vài con (chúng có thể là đám quan chức phạm
tội) còn bị xích lại với nhau; không con nào thoát cả. Nhiều con lúc còn sống
trông rất quen với Scrooge. Lão nhận ra một con ma già mặc tấm áo chẽn màu trắng,
đeo cái két sắt gắn vào khóa xích, đang khóc lóc thảm thiết vì không thể giúp một
thiếu phụ bất hạnh, tay ẵm con nhỏ, đang ngồi nơi bậc thềm bên dưới. Điều đau
khổ với chúng, rõ ràng là, vì lòng tốt, chúng muốn xen vào chuyện con người,
nhưng chả còn đâu khả năng đó nữa.
Scrooge chả
thể nói là liệu mấy sinh vật này lẩn vào mây mù, hay mây mù che phủ chúng.
Nhưng giọng nói và bản thân chúng cùng biến mất; và đêm lại trở lại như cũ khi
lão quay gót vào nhà.
Scrooge đóng cửa sổ lại, rồi xem xét cánh cửa
mà Hồn ma Marley đã lướt qua. Nó được khóa hai vòng, y như lúc lão tự tay mình
khóa lại, và chốt cửa còn y nguyên. Lão cố thốt ra hai từ “Bịp bợm!” nhưng chỉ
được âm đầu tiên là im bặt. Và vì rúng động với chuyện vừa rồi, mệt mỏi vì làm
cả ngày dài, hay do nhìn thấy cái Thế giới Vô hình kia, đối thoại nhạt phèo với
Hồn ma nọ, cùng sự trễ nải của giờ giấc, mà lão thấy cần được nghỉ ngơi khủng
khiếp, thế là lão lao vào giường, chả thèm cởi quần áo, lập tức lăn ra ngủ.
[1] Sàn giao dịch Hoàng gia
nơi các thương nhân, ông chủ nhà băng thực hiện giao dịch buôn bán.
[2] Bánh pudding Giáng sinh
hay pudding mận (mận vào thời tiền Victoria dùng để chỉ nho khô), hay đơn giản
là pud, tức bánh dồi, vì được làm từ bột, trứng, trái cây khô nghiền và mỡ
bò hay mỡ cừu trộn vào nhau, thỉnh thoảng còn có thêm mật đường, quế, nhục
đậu khấu, đinh hương, gừng và các loại gia vị khác, rồi được nhồi vào túi vải
(hoặc lòng như trường hợp black pudding – dồi huyết của người Ireland). Bánh được luộc khá lâu (thường là vài tiếng), và khi ăn thì rưới ít rượu
ở đáy đĩa rồi đốt lên.
[3] Bedlam hay Bệnh viện Hoàng
gia Bethlem, bệnh viện tâm thần đầu tiên ở Luân Đôn. Ý Scrooge nói là vào nhà
thương điên.
[4] Luật ra đời dưới thời của
Nữ hoàng Victoria,
nhằm tạo điều kiện để hàng cứu trợ tới tay người nghèo được hiệu quả. Song luật
ra đời chỉ làm sâu sắc thêm sự khác biệt giàu nghèo, và được thay bằng Luật người
nghèo sửa đổi vào năm 1834.
[5] Dunstan là một họa sĩ, thợ
kim hoàn, thợ rèn. Bị tòa án trục xuất, ông xây một nhà ngục gần nhà thờ Glastonbury và làm việc ở
đó. Theo Thánh kinh, Quỷ sứ đã tới trò chuyện cùng ông. Ông vẫn nói trong khi
rèn, tới khi cái kẹp trong tay mình đỏ rực cả lên, thì bất ngờ quay sang kẹp
vào mũi Quỷ.
[6] 1 crown = 5 shilling hay
60 xu. Nửa đồng crown là 30 xu.
[7] Phố được đặt theo tên một
chợ bán ngũ cốc không còn nữa (Cornhill nghĩa đen là Đồi Ngũ cốc).