Thursday, October 31, 2013

BFG -- Chapter 7



ĐÔI TAI KỲ DIỆU

Quay vào hang, chú KLTBTT đặt Sophie ngồi lại trên cái bàn to. “Cháu có đủ ấm với bộ đồ ngủ ấy không?” Chú ta hỏi. “Cháu không thấy rét run lên à?”
            “Cháu ổn cả,” Sophie đáp.
            “Ta không thể không nghĩ tới cha mẹ đáng thương của cháu,” chú KLTBTT nói. “Chắc họ đang nhảy tưng tưng, lùng sục khắp nhà, mồm kêu inh ỏi, ‘Hú òa, hú òa, Sophie đâu rồi?’”
            “Giờ cháu chả có ai,” Sophie đáp. “Cha mẹ mất khi cháu còn nhỏ xíu.”
            “Ôi, hạt đậu nhỏ bé đáng thương!” Chú KLTBTT kêu lên. “Cháu không nhớ họ nhiều lắm chứ?”
            “Thật sự thì không ạ,” Sophie đáp, “vì cháu có biết mặt họ đâu.”
            “Cháu khiến ta buồn quá,” chú KLTBTT vừa nói vừa dụi mắt.
            “Đừng buồn,” Sophie bảo. “Chả ai lo lắng cho cháu nhiều đến thế. Chỗ chú lôi cháu đi là trại trẻ mồ côi làng. Ở đó chúng cháu đều mồ côi cả.”
            “Các cháu là trẻ mồ côi à?”
            “Vâng.”
            “Ở đó có bao nhiêu cháu?”
            “Bọn cháu có 10 đứa,” Sophie đáp. “Toàn là con gái.”
            “Ở đó có vui không?” Chú KLTBTT hỏi.
            “Cháu ghét nó lắm,” Sophie đáp. “Quản lý chỗ đó là Bà Clonkers và nếu bà ấy bắt gặp chú vi phạm cái gì, tỉ như trèo khỏi giường vào buổi tối hay không xếp quần áo lại, thì chú sẽ bị phạt ngay.”
            “Cháu bị phạt thế nào?”
            “Bà ấy nhốt bọn cháu dưới hầm rượu tối om suốt một ngày một đêm, không cho ăn uống gì cả.”
            “Đồ quạ già đáng ghét!” Chú KLTBTT kêu lên.
            “Chỗ ấy khiếp lắm,” Sophie bảo. “Bọn cháu sợ lắm. Có chuột ở dưới đó. Bọn cháu có thể nghe thấy chúng bò xung quanh.”
            “Đồ sâu bọ bẩn thỉu!” Chú KLTBTT hét to. “Đó là chuyện kinh khiếp nhất mà ta nghe được suốt nhiều năm qua! Cháu làm ta buồn quá thể!” Lập tức một giọt nước mắt to có thể đổ đầy cả xô lăn xuống má chú KLTBTT, rồi rơi tõm xuống nền nhà. Nó tạo thành vũng nước nhỏ ở đó.
            Sophie nhìn theo, đầy kinh ngạc. Cô nghĩ, đây thật là sinh vật kỳ lạ, đồng bóng. Phút trước chú ta còn bảo mình đầu đầy ruồi ép, vậy mà phút sau, tim chú ta đã tan chảy vì mình khi mình cùng đám bạn bị Bà Clonkers nhốt dưới tầng hầm.
            “Điều cháu lo,” Sophie nói tiếp, “là phải ở lại cái nơi ghê rợn này suốt đời. Trại trẻ khiếp thật, nhưng cháu đâu có ở đó mãi, đúng không?”
            “Tất cả là lỗi tại ta,” chú KLTBTT bảo. “Ta là kẻ bắt cháu đi.” Rồi một giọt nước to tướng nữa ầng ậng trong mắt chú ta và rơi tõm xuống nền nhà.
            “Giờ nghĩ lại, cháu cho là mình không thực sự ở đây lâu đến thế,” Sophie nói.
            “Ta e cháu phải làm thế thôi,” chú KLTBTT đáp.
            “Không, cháu không ở đây đâu,” Sophie bảo. “Bọn cục súc kia sớm muộn sẽ lùng ra cháu và xơi cháu trong bữa trà chiều.”
            “Ta không bao giờ để điều đó xảy ra,” Chú KLTBTT đáp.
            Trong giây lát cả hang động lặng yên. Rồi Sophie nói, “Cháu có thể hỏi chú một câu được không?”
            Chú KLTBTT lấy tay chùi mắt, rồi nhìn Sophie với vẻ chăm chú, trầm ngâm. “Bụp luôn đi,” chú ta đáp.
            “Chú có thể bảo cho cháu biết, tối qua chú làm gì ở làng cháu không? Tại sao chú lại chọt thứ gì trông như cái kèn dài ấy vào phòng ngủ bọn trẻ nhà Goochey rồi thổi nó?”
            “À há!” Chú KLTBTT kêu lên, thình lình ngồi bật dậy. “Giờ bọn mình ồn ào hơn cái chợ trời rồi đó!”
            “Cả va li chú xách theo nữa,” Sophie bảo. “Đó là cái quái quỷ gì vậy?”
            Chú KLTBTT ngờ vực nhìn cô bé con đang ngồi bắt chéo chân trên bàn.
            “Cháu đang đòi ta kể cho nghe những bí mật bự xự đấy,” chú ta đáp. “Bí mật chưa ai từng nghe thấy bao giờ.”
            “Cháu chả bật mí tí nào đâu,” Sophie nói. “Cháu thề đấy. Mà sao cháu nói cho ai biết được cơ chứ? Cháu bị kẹt ở đây suốt đời mà.”
            “Cháu có thể nói cho gã khổng lồ khác biết.”
            “Không, cháu không làm thế,” Sophie đáp. “Chú bảo bọn chúng sẽ chén cháu ngay khi thấy cháu mà.”
            “Bọn chúng sẽ làm thế,” Chú KLTBTT bảo. “Cháu là đậu người, mà đậu người, với khổng lồ, thì giống hệt dâu tây với cà rem vậy.”
            “Nếu chúng chén cháu ngay khi thấy cháu, thì cháu đâu có thời gian để kể cho chúng nghe điều gì, đúng không?” Sophie hỏi.
            “Cháu không có thời gian đâu,” Chú KLTBTT đáp.
            “Vậy chú bảo, cháu có thể kể cho ai nghe chứ?”
            “Vì ta có đầy thứ ầm ào,” Chú KLTBTT bảo. “Nếu nghe hết mọi điều ta nói, thì cháu sẽ ù tai mất thôi.”
            “Hãy nói cho cháu biết chú làm gì trong làng cháu đi,” Sophie bảo. “Cháu hứa chú có thể tin tưởng cháu đấy.”
            “Cháu có chịu dạy ta cách làm ra con doi[1] không?” Chú KLTBTT hỏi.
            “Ý chú gì cơ?” Sophie hỏi lại.
            “Ta khoái có doi để cưỡi,” Chú KLTBTT mơ màng đáp. “Ta thích một con doi to béo lộn xộn, rồi suốt ngày cưỡi nó vào rừng xanh nhặt đám quả mịn màng mọng nước trên cây. Xứ sở bọn ta sống là một nơi nóng chảy cả mỡ. Chả có gì mọc lên, ngoại trừ đám dưa nuốt-không-trôi. Ta muốn tới nơi nào đó khác hẳn đây, và vào buổi sớm mai ngồi trên lưng doi đi nhặt quả mọng.”
            Sophie thấy thật cảm động khi nghe lời nói kỳ lạ này.
            “Có lẽ ngày nào đó bọn cháu sẽ kiếm cho chú một con voi,” cô bé đáp. “Cả quả mọng nữa. Giờ kể cho cháu nghe chuyện chú làm trong làng cháu đi.”
            “Nếu cháu thật sự muốn biết ta làm gì trong làng mình,” chú KLTBTT bảo, “thì đây, ta thổi giấc mơ vào phòng bọn trẻ.”
            Thổi giấc mơ á?” Sophie kêu lên. “Ý chú là sao?”
            “Ta là gã khổng lồ chuyên-thổi-giấc-mơ,” chú KLTBTT đáp. “Khi cả đám khổng lồ tản mát đi khắp nơi, tìm kiếm đậu người để ăn, thì ta lỉnh tới chỗ khác để thổi giấc mơ vào phòng bọn trẻ đang ngủ. Những giấc mơ đẹp. Những giấc mộng vàng óng đáng yêu. Những giấc mơ khiến người nằm mơ có khoảng thời gian vui vẻ.”
            “Chờ chút nào,” Sophie bảo. “Chú lấy đâu ra những giấc mơ ấy?”
            “Ta thu thập chúng,” Chú KLTBTT bảo, vẫy tay về phía hàng hàng lớp lớp chai lọ để trên kệ. “Ta có ti tỉ chúng.”
            “Chú không thể thu thập giấc mơ được,” Sophie bảo. “Giấc mơ đâu phải thứ gì đó chú có thể cầm nắm được đâu.”
            “Cháu không bao giờ hiểu được chuyện đó đâu,” chú KLTBTT đáp. “Đó là lý do tại sao ta không muốn kể cho cháu nghe.”
            “Ôi, cháu xin chú đấy!” Sophie năn nỉ. “Kể đi, cháu sẽ hiểu mà! Thôi nào! Kể cháu nghe xem chú thu thập giấc mơ thế nào đi! Kể cháu nghe mọi thứ đi!”
            Chú KLTBTT xoay người ngồi lại cho thật thoải mái, rồi bắt chéo chân. “Giấc mơ,” chú ta bảo, “là thứ rất huyền bí. Chúng trôi nổi trong không khí hệt như những bong bóng mỏng manh mờ ảo. Và chúng luôn tìm kiếm những người đang ngủ.”
            “Chú có thể thấy chúng không?” Sophie hỏi.
            “Thoạt đầu thì không.”
            “Vậy sao chú bắt được chúng, nếu không nhìn thấy chúng?” Sophie lại hỏi.
            “À há,” chú KLTBTT đáp. “Giờ sắp tới phần bí mật hắc ám tối tăm đây.”
            “Cháu chả bật mí tí nị nào đâu.”
            “Ta tin cháu,” chú KLTBTT bảo. Chú ta nhắm mắt, ngồi im một chốc, trong khi Sophie ngóng đợi.
            “Giấc mơ,” chú ta nói, “khi bay vẩn vơ trong không khí buổi đêm, thì tạo ra thứ âm thanh rù rì nho nhỏ. Nhưng thứ âm thanh rù rì nho nhỏ này êm như nhung, đậu người chả thể nào nghe được.”
            “Chú nghe được không?” Sophie hỏi.
            Chú KLTBTT dựng đôi tai to như bánh xe tải của mình lên, đôi tai mà giờ chú ta bắt đầu ve vẩy. Chú ta làm việc này một cách hãnh diện, miệng nở một nụ cười nho nhỏ hãnh diện. “Cháu thấy thứ này chứ?” chú ta hỏi.
            “Sao cháu lại không thấy cơ chứ?” Sophie đáp lại.
            “Với cháu, chúng trông có vẻ phì nhiêu,” chú KLTBTT bảo, “nhưng cháu phải tin, khi ta bảo rằng chúng thật sự là đôi tai rất đỗi ngoại thường[2]. Chúng không phải thứ để nhổ vào.”
            “Cháu chắc chúng không phải thứ ấy,” Sophie đáp.
            “Chúng cho phép ta nghe được hết thảy mọi thứ nhỏ nhít loay xoay.”
            “Ý chú là chú có thể nghe thấy thứ mà cháu không nghe thấy ấy hả?” Sophie hỏi.
            “Nếu so với ta, thì cháu điếc như con cá diếc ấy[3]!” chú KLTBTT kêu lên. “Cháu chỉ nghe thấy những âm thanh to thình thịch với đôi tai nhỏ xí như hạt bí mà thôi. Nhưng ta nghe được toàn bộ những tiếng thì thầm bí mật của cả thế gian!”
            “Chẳng hạn như?” Sophie hỏi.
            “Như ở nước cháu,” chú ta đáp, “ta nghe được tiếng chân của bọ rùa khi nó tản bộ dọc lá cây.”
            Thật thế ư?” Sophie kêu lên, bắt đầu thấy ấn tượng.
            “Hơn nữa, ta còn nghe được tiếng chân rất lớn,” chú KLTBTT nói. “Khi bọ dừa tản bộ dọc lá cây, ta nghe chân nó dậm cà-rầm-cà-rập như tiếng chân bọn khổng lồ vậy.”
            “Trời đất quỷ thần ơi!” Sophie kêu lên. “Chú còn nghe thấy gì nữa?”
            “Ta nghe được cả tiếng đám kiến nhỏ ríu rít với nhau khi chúng bò trong lòng đất.”
            “Ý chú là chú nghe được kiến nói chuyện ấy hả?”
            “Từng từ một,” chú KLTBTT đáp. “Dù ta không hiểu ngôn thuật[4] của chúng.”
            “Tiếp đi chú,” Sophie bảo.
            “Thỉnh thoảng, vào những đêm trời quang quẻ,” chú KLTBTT kể tiếp, “nếu ta vung tai đúng hướng,” tới đây chú ta vung tai dựng đứng cả lên, đến nỗi chúng chĩa thẳng lên trời, “nếu ta vung tai như thế, và đêm đó trời quang quẻ, thì ta nghe được cả tiếng nhạc xa xăm từ sao trên trời vẳng lại.”
Sophie chợt thấy một sự rung động kỳ quặc, nhẹ nhàng lan khắp người. Cô ngồi thật im, chờ đợi nghe thêm.
“Tai chú chính là thứ bảo cho chú biết đêm qua, cháu đang dòm ra ngoài cửa sổ,” chú KLTBTT bảo.
“Nhưng cháu có gây ra tiếng động nào đâu,” Sophie đáp.
“Chú nghe tiếng tim cháu đập bên kia đường,” chú KLTBTT bảo. “To như trống trận ấy.”
“Chú kể tiếp đi,” Sophie nài nỉ. “Tiếp đi mà.”
“Chú nghe được cả tiếng cây cối, hoa màu.”
Chúng có nói chuyện không?” Sophie hỏi.
“Chính xác thì chúng không nói,” chú KLTBTT đáp. “Nhưng chúng tạo ra tiếng động. Chẳng hạn, nếu chú đang đi, rồi nhặt một bông hoa xinh lên, nếu chú bẻ gãy cành của nó, thì cái cây sẽ rú lên. Chú có thể nghe tiếng nó rú, rất rõ là đằng khác.”
“Chú không có ý đó chứ!” Sophie kêu lên. “Nghe ghê quá!”
“Nó rú lên y như cháu rú lên khi ai đó bẻ rời tay cháu ra vậy.”
“Thật vậy hả?” Sophie hỏi.
“Cháu nghĩ chú đang chế nổ à?”
“Chuyện đó khó tin quá.”
“Vậy chú dừng ở đây thôi,” chú KLTBTT gay gắt bảo. “Chú không thích bị gọi là tay phét lác.”
“Ôi không! Cháu không gọi chú là gì cả!” Sophie kêu lên. “Cháu tin chú mà! Tin thật đấy! Chú kể tiếp đi!”
Chú KLTBTT đưa mắt nhìn cô bé, vẻ khó chịu một lúc. Sophie đưa mắt nhìn lại, gương mặt tỏa nét cởi mở. “Cháu tin chú mà,” cô nhẹ nhàng nói.
Cô đã xúc phạm chú ta, cô có thể thấy điều đó.
“Ta không đời nào đi phét lác với cháu cả,” chú ta bảo.
“Cháu biết chú không làm thế,” Sophie bảo. “Nhưng chú phải hiểu là những thứ kinh ngạc đến thế thì khó làm người ta tin ngay được.”
“Ta hiểu mà,” chú KLTBTT đáp.
“Vậy hãy tha thứ cho cháu và kể tiếp đi mà,” cô bảo.
Chú ta đợi một lúc nữa, rồi mới kể, “Cây cũng giống như hoa. Nếu bổ rìu vào thân một cây to, thì ta sẽ nghe thấy âm thanh khủng khiếp vọng ra từ trái tim cây.”
“Âm thanh thế nào cơ?” Sophie hỏi.
“Âm thanh rên rỉ nhè nhẹ,” chú KLTBTT đáp. “Giống tiếng ông già rên lên khi sắp chết vậy đó.”
Chú ta ngừng nói. Cái hang lại yên lặng.
“Cây cối tồn tại và lớn lên y như ta và cháu vậy,” chú ta tiếp tục. “Chúng sống. Hoa màu cũng thế.”
Giờ chú ta ngồi thẳng dậy, tay nắm chặt lại để ở phía trước. Mặt chú ta bừng sáng, đôi mắt tròn và sáng như hai vì sao.
“Âm thanh ta nghe được thật tuyệt vời và thật khủng khiếp,” chú ta bảo. “Vài âm thanh cháu sẽ ước mình đừng có nghe! Nhưng một số thì như âm nhạc kỳ thú vậy!”
Chú ta bừng bừng phấn khích khi nghĩ tới chuyện ấy. Gương mặt chú thật đẹp trong niềm xúc cảm đó.
“Kể cháu nghe thêm về chuyện ấy đi,” Sophie nhẹ nhàng bảo.
“Cháu nên nghe bọn chin chít[5] nói chuyện với nhau!” chú ta kể. “Bọn ấy luôn nói chuyện và chú nghe chúng nói to hệt như giọng mình nói vậy.”
“Chúng nói gì thế?” Sophie hỏi.
“Chỉ chúng mới biết,” chú ta bảo. “Nhện cũng nói nhiều. Cháu sẽ không nghĩ thế nhưng bọn nhện là chúa mồm mép đấy. Khi chăng tơ, chúng hát suốt. Chúng hát còn hay hơn cả chim mòng ca[6] ấy chứ.”
“Chú còn nghe thấy ai nữa?” Sophie hỏi.
“Một trong số những kẻ buôn chuyện nhiều nhất là bọn sâu so,[7]” chú KLTBTT bảo.
“Chúng buôn gì thế?”
“Chúng suốt ngày bàn ra tán vào xem ai sẽ thành canh cánh[8] đẹp nhất. Chúng chỉ buôn có thế mà thôi.”
“Giờ có giấc mơ nào trôi dạt quanh đây không hở chú?” Sophie hỏi.
Chú KLTBTT dựng đôi tai theo hướng này hướng kia, chăm chú nghe ngóng. Rồi chú ta lắc đầu. “Chả có giấc mơ nào quanh đây cả,” chú ta bảo, “trừ trong chai. Ta có nơi đặc biệt để đi bắt giấc mơ. Chớ chúng ít khi tới Xứ Khổng lồ lắm.”
“Chú làm sao bắt được chúng?”
“Như cháu bắt canh cánh ấy,” chú KLTBTT đáp. “Dùng vợt.” Chú ta đứng dậy, băng qua hang tới cái ngách, nơi một cây sào đang ngả vào tường. Sào dài khoảng 30 foot, có vợt ở đằng đuôi. “Đây là vợt-bắt-giấc-mơ,” chú ta bảo, một tay nắm cây sào. “Mỗi sáng ta ra ngoài, vợt cho được một mớ giấc mơ mới để cho vào lọ.”
Đột nhiên, chú ta hình như mất hứng nói chuyện. “Ta đói bụng rồi,” chú ta bảo. “Giờ ăn tới rồi.”



[1] Nhại ‘elephant’ (voi) thành ‘elefunt’.
[2] Chú KLTBTT dùng rất nhiều từ chế, tỉ như ở đây, thay vì dùng ‘extraordinary’ (phi thường) thì chú ta dùng ‘extra-usual’ (tạm dịch là, ngoại thường).
[3] Lại một cụm từ chế khác, thông thường người Anh dùng ‘deaf as a doorpost/stone’, ở đây chú KLTBTT chế thành ‘deaf as a dumpling’.
[4] Một từ chế, ‘langwitch’ thay vì ‘language’ (ngôn ngữ).
[5] Nhại ‘mice’ (chuột nhắt) thành ‘micies’.
[6] Nhại ‘nightingale’ (chim sơn ca) thành nightingull.
[7] Nhại ‘caterpillar’ (ngài) thành ‘cattlepiddler’.
[8] Nhại ‘butterfly’ (bươm bướm) thành ‘butteryfly’.

Tuesday, October 29, 2013

BFG -- Chapters 5 & 6

CHÚ KLTBTT

Gã khổng lồ dùng một tay nhặt cô bé Sophie đang run rẩy lên rồi mang cô dọc theo hang tới cái bàn, đặt cô lên đó.
            Giờ hắn sắp chén mình đây, Sophie nghĩ.
            Gã khổng lồ ngồi xuống, nhìn chằm chằm vào Sophie. Hắn có đôi tai thực sự rất to. Mỗi cái phải to bằng bánh xe tải, mà hình như hắn còn có thể ve vẩy chúng quanh đầu tùy thích nữa.
            “Ta đói!” Gã khổng lồ gầm lên. Hắn cười nhăn nhở, nhe hàm răng to cộ của mình ra. Những cái răng rất trắng, vuông vắn, và nằm trong mồm hắn y như những lát bánh mì.
            “Xin đừng ăn thịt tôi,” Sophie lắp bắp van vỉ.
            Gã khổng lồ phá ra cười. “Chỉ vì ta là một gã khổng lồ, bộ ngươi nghĩ ta là một tên nhai xương ngốn thịt đám người nhỏ bé các ngươi sao!” hắn hét lên. “Người gần đúng rồi đấy! Khổng lồ tất thảy đều khoái giết chóc, xơi thịt! Và chúng thật sự thích chén bọn đậu người! Giờ ta đang ở Xứ sở Khổng lồ! Khổng lồ có ở khắp mọi nơi! Ngoài kia bọn ta có một tên nổi tiếng là Gã Gặm-xương-rôm-rốp! Gã Gặm-xương-rôm-rốp xơi tái hai thằng đậu người vẩn vơ mỗi bữa tối! Tiếng ồn nghe điếc cả tai! Tiếng nhai xương kêu rôm rốp xa hàng dặm ấy!”
            “Ôi trời ơi!” Sophie kêu lên.
            “Gặm-xương-rôm-rốp chỉ xơi bọn đậu người ở Thổ Nhĩ Kỳ thôi,” Gã khổng lồ bảo. “Mỗi tối Gặm-xương-rôm-rốp lại phi tới Thổ Nhĩ Kỳ để xơi bọn Thổ ở đó.”
            Lòng yêu nước của Sophie đột nhiên bị lời nói này đụng chạm, đến độ cô giận quá hét lên. “Sao lại là người Thổ?” cô buột miệng hỏi. “Thế người Anh có gì sai nào?”
            “Gặm-xương-rôm-rốp bảo bọn Thổ mọng nước và ngon ăn hơn! Hắn bảo đậu người Thổ có mùi rất tuyệt. Hắn bảo bọn Thổ ở Thổ Nhĩ Kỳ có mùi gà tây[1]”.
            “Tôi chắc họ là thế,” Sophie đáp.
            “Dĩ nhiên chúng là thế!” Gã khổng lồ hét lên. “Mọi loại đậu người đều ngon ăn[2] và khác nhau. Một số thì ngon ăn, số khác thì kinh khủng. Bọn Hi Lạp kinh khủng lắm. Chả tên khổng lồ nào thèm chén chúng cả.”
            “Sao không nhỉ?” Sophie hỏi.
            “Bọn Hi Lạp ở Hi Lạp đều có mùi thớ lợ[3].” Gã khổng lồ bảo.
            “Tôi hình dung ra nó có thể là thế,” Sophie đáp. Cô đang tự hỏi, bụng hơi run, là ngồi tán dóc về việc ăn thịt người rồi sẽ đi tới đâu. Mà dù có chuyện gì xảy ra, thì cô chắc chỉ chơi bời với gã khổng lồ kỳ cục này và cười cợt với trò đùa của hắn.
            Nhưng liệu đó có phải trò đùa hay không? Biết đâu tên cục súc to tướng này tám về việc ăn thịt người để thấy ngon miệng hơn thì sao.
            “Như ta nói rồi đó,” Gã khổng lồ tiếp tục, “mọi loại đậu người đều có mùi vị khác nhau. Đậu người ở Panama có mùi nón rất nồng[4].”
            “Sao lại là nón nhỉ?” Sophie hỏi.
            “Ngươi chả thông minh mấy,” Gã khổng lồ nói, ve vẩy đôi tai. “Ta cứ nghĩ đậu người rất thông minh, nhưng đầu ngươi thì rỗng còn hơn cái chai không ấy.”
            “Ông có thích rau quả không?” Sophie hỏi, hi vọng lái cuộc đối thoại sang thứ thực phẩm gì đó ít nguy hiểm hơn.
            “Ngươi muốn đổi đề tài à?” Gã khổng lồ lạnh lùng hỏi lại. “Bọn ta rất khoái tán dóc về mùi vị đậu người. Đậu người không phải rau quả.”
            “Ồ, nhưng đậu là rau quả đấy ạ.” Sophie đáp lại.
            “Không phải đậu người,” Gã khổng lồ bảo. “Đậu người có hai chân, rau quả chả có cái chân nào.”
            Sophie không cãi nữa. Điều cuối cùng cô muốn làm là khiến Gã khổng lồ nổi đóa.
            “Đậu người,” Gã khổng lồ nói tiếp, “có ti tỉ mùi vị khác nhau. Chẳng hạn, đậu người ở xứ Wales có mùi cá cực tanh. Có gì đó rất cá mú ở bọn ấy.”
            “Ý ông là cá voi chứ gì[5],” Sophie đáp. “Wales khác hẳn chứ lị.”
            “Wales là cá voi,” Gã khổng lồ bảo. “Đừng có vây vo chữ nghĩa. Ta sẽ cho ngươi ví dụ nữa. Đậu người ở Jersey có mùi khiến lưỡi buồn nôn nhất,” Gã khổng lồ bảo. “Đậu người ở Jersey có mùi áo len đan.”
            “Ý ông là áo dệt kim chứ gì[6],” Sophie đáp.
            “Ngươi lại vây vo rồi!” Gã khổng lồ hét lên. “Đừng làm thế! Đó là đề tài nghiêm túc và hay ho nhất đấy. Ta tiếp tục được chứ?”
            “Xin tiếp ạ,” Sophie đáp lời.
            “Bọn Đan Mạch ở Đan Mạch thì rất dậy mùi chó,” Gã khổng lồ tiếp tục.
            “Dĩ nhiên,” Sophie đáp. “Họ sặc mùi chó Dane.”
            “Sai!” Gã khổng lồ la to, vỗ tay vào đùi. “Bọn Đan Mạch ở Đan Mạch dậy mùi chó vì chúng có mùi Labrador[7]!”
            “Vậy người ở Labrador thì có mùi gì?” Sophie hỏi.
            “Mùi Dane chứ gì nữa,” Gã khổng lồ đắc thắng reo lên. “Sặc mùi chó Dane luôn.”
            “Ông có lộn không đấy?” Sophie hỏi.
            “Ta là Gã khổng lồ cực kỳ lẫn lộn,” Gã khổng lồ đáp. “Nhưng ta cố hết sức. Ta không lẫn với mấy đứa khác. Ta biết một đứa phi quá trời tới Wellington để tìm bữa tối đấy.”
            “Wellington hả?” Sophie hỏi. “Wellington ở đâu cơ?”
            “Đầu ngươi đầy ruồi ép rồi,” Gã khổng lồ bảo. “Wellington ở Tân Tây Lan chứ đâu. Bọn đậu người ở Wellington có mùi ngon đặc biệt, Gã Ngon-miệng bảo thế.”
            “Vậy họ có mùi gì?” Sophie hỏi.
            “Mùi giầy,” Gã khổng lồ đáp.
            “À ra thế,” Sophie đáp lại. “Lẽ ra tôi phải biết mới phải[8].”
            Sophie quyết định cuộc đối thoại thế là đủ. Nếu cô sắp bị xơi, thì cô nên kết thúc nó cho rồi, còn hơn cứ kéo dài ra mãi. “Ông xơi loại người nào vậy?” cô run rẩy hỏi.
            Ta á!” Gã khổng lồ hét lên, giọng vang khỏe của hắn khiến mấy lọ thủy tinh kêu lanh canh trên kệ. “Ta xơi đậu người á! Ta chả bao giờ làm thế! Mấy đứa khác thì có đấy! Cả đám mấy đứa khác đều ăn chúng mỗi đêm, nhưng ta thì không! Ta là Gã khổng lồ kỳ quái! Gã khổng lồ dễ thương, lộn xộn duy nhất ở Xứ sở Khổng lồ này! Ta là Chú Khổng Lồ To Béo Thân Thiện! Chú KLTBTT. Tên ngươi là gì?”
            “Tên tôi là Sophie,” Sophie đáp, chẳng dám tin vào điều tốt lành mình vừa nghe được.
           
BỌN KHỔNG LỒ

“Nhưng nếu ông dễ thương và thân thiện đến thế,” Sophie hỏi, “sao ông lại bắt cóc rồi đem tôi đi?”
            “Vì ngươi đã nhìn thấy ta,” Chú Khổng Lồ To Béo Thân Thiện đáp. “Nếu ai đó thấy một gã khổng lồ, thì hắn ta hay ả ta phải bị bắt đi ngay tắp lự.”
            “Tại sao cơ chứ?” Sophie hỏi.
            “À, là vì đầu tiên,” Chú KLTBTT đáp, “đậu người có thực sự tin vào bọn khổng lồ đâu, đúng không? Đậu người không nghĩ là bọn ta tồn tại.”
            “Tôi tin đấy,” Sophie bảo.
            “À, đó là do ngươi đã NHÌN THẤY ta!” Chú KLTBTT kêu lên. “Ta không được phép cho bất kỳ ai, kể cả đứa con gái nhỏ, nhìn thấy rồi mà còn được ở lại nhà. Việc đầu tiên ngươi làm sẽ là lượn vòng vòng quanh làng, miệng the thé lên về cái tin, là ngươi thực sự đã NHÌN THẤY một gã khổng lồ, rồi hình ảnh một gã khổng lồ đi-săn to bự, một gã khổng lồ nhìn-vô-biết-ngay là mạnh mẽ sẽ trỗi dậy trên khắp thế gian này, rồi bọn đậu người sẽ lùng sục khắp nơi để tìm ra gã khổng lồ ngươi đã nhìn thấy và hào hứng cuồng nhiệt vì hắn. Người ta sẽ đổ xô lao theo, đeo đuổi ta vì cái gì thì có trời mới biết, rồi chúng bắt ta, nhốt ta vào lồng để nhìn ngắm. Chúng sẽ cho ta vào sở thú hay cái nhà vớ va vớ vẩn nào đó, cùng bọn hà mã béo bự ngọ ngà ngọ nguậy và bọn cá sấu sậm sà sậm sựt.”
            Sophie biết điều Gã khổng lồ nói là đúng. Nếu ai đó bảo đã thực sự nhìn thấy một tên khổng lồ đi ám các con đường làng vào ban đêm, thì chắc hẳn phải có một vụ bô lô ba la khủng khiếp lan ra khắp thế giới.
            “Dám cá với ngươi luôn,” Chú KLTBTT nói tiếp, “là nếu ta không cuỗm ngươi đi, thì thể nào ngươi cũng tung tóe cái tin này cho cả thế giới run rẩy ốm yếu kia được biết, đúng không?”
            “Tôi cho là thế,” Sophie đáp.
            “Thế thì không được,” Chú KLTBTT bảo.
            “Vậy giờ chuyện gì sẽ xảy ra với tôi?” Sophie hỏi.
            “Nếu ngươi quay lại, ngươi sẽ bảo cho cả thế giới biết,” Chú KLTBTT đáp, “có thể là trên cái hộp to bự tầm xàm bá láp và cái đài suốt ngày kêu choe chóe lên ấy. Vậy nên ngươi phải ở lại đây với ta cho tới cuối đời.”
            “Ôi không đâu!” Sophie kêu lên.
            “Ồ có đấy!” Chú KLTBTT đáp lại. “Nhưng ta cảnh báo ngươi là không được léo hánh ra khỏi cái hang này mà không có ta đi cùng, không thì ngươi sẽ gặp hậu quả ghê tởm nhơ nhớp lắm đấy! Giờ ta chỉ cho ngươi thấy bọn người sẽ xơi tái nhà ngươi nếu chúng chỉ cần liếc thấy hình dáng tí tẹo của ngươi thôi.”

Chú Khổng Lồ To Béo Thân Thiện nhấc Sophie lên bàn và mang cô bé ra ngoài cửa hang. Hắn đẩy hòn đá to sang một bên rồi bảo, “Nhòm ra ngoài đi nhóc, rồi bảo ta xem ngươi thấy gì nào.”
            Sophie, ngồi trên tay của Chú KLTBTT, liếc mắt nhòm ra ngoài hang.
            Mặt trời giờ đã lên cao, chiếu ánh nắng nóng bỏng lên vùng hoang mạc vàng vọt rộng lớn, với đám đá xanh và cây cối chết khô.
            “Ngươi nhìn thấy chúng chưa?” Chú KLTBTT hỏi.
            Sophie, nheo mắt nhìn qua ánh mặt trời chói lọi, chợt thấy vài hình bóng cao to đang di chuyển dọc theo những tảng đá, cách đó khoảng 500 yard. Còn ba hay bốn tên khác thì đang ngồi bất động trên những tảng đá.
            “Đây là Xứ sở Khổng lồ,” Chú KLTBTT bảo. “Đó là khổng lồ, mọi người đều thế cả.”
            Đó là quang cảnh làm tâm trí ta bủn rủn. Bọn khổng lồ đều trần truồng, trừ mảnh vải trông như chiếc váy ngắn quấn quanh eo, và da chúng thì đều bị mặt trời hun thành màu nâu. Song kích cỡ của mỗi tên trong bọn chúng mới khiến tâm trí Sophie bủn rủn nhiều nhất. Chúng không chỉ to lớn hơn, cao hơn, bự hơn Chú KLTBTT, người mà cô đang ngồi trên tay đây. Mà eo ôi, chúng mới xấu xí làm sao! Nhiều tên bụng phệ cả ra. Cả bọn đều có tay dài, chân to. Chúng ở xa nên không nhìn rõ mặt, nhưng thế lại hay.
            “Bọn chúng đang làm cái quái gì vậy?” Sophie hỏi.
            “Chả làm gì cả,” Chú KLTBTT đáp. “Chúng chỉ đi thơ thẩn, lượn vòng vèo, đợi đêm đến mà thôi. Rồi chúng phi tới các chốn nơi người ta sống để tìm bữa tối cho mình.”
            “Ý ông là Thổ Nhĩ Kỳ chứ gì,” Sophie đáp.
            “Gã Gặm-xương-rôm-rốp sẽ phi tới Thổ Nhĩ Kỳ, dĩ nhiên rồi,” Chú KLTBTT đáp lại. “Nhưng mấy tên khác sẽ phóng tới tà la tứa lưa các nơi, như Wellington để kiếm mùi giầy, hay Panama để kiếm mùi nón. Mỗi tên khổng lồ lại có một nơi để săn lùng mùi vị yêu thích của riêng mình.”
            “Chúng có tới Anh không?” Sophie hỏi.
            “Thường xuyên,” Chú KLTBTT đáp. “Chúng bảo dân Anh có mùi sò ngon tuyệt hảo.”
            “Tôi không chắc mình hiểu thế là ý gì,” Sophie bảo.
            “Ý nghĩa không quan trọng,” Chú KLTBTT đáp. “Ta không thể lúc nào cũng đúng được. Thỉnh thoảng ta cũng trái thay vì phải[9].”
            “Thế tất cả bọn khổng lồ kia tối nay lại đi săn người để ăn à?” Sophie hỏi.
            “Tất cả bọn chúng đều xơi đậu người mỗi tối,” Chú KLTBTT đáp lại. “Tất cả bọn chúng trừ mỗi mình ta. Đó là lý do tại sao ngươi sẽ gặp hậu quả ghê tởm nhơ nhớp nếu để bất cứ tên nào trong số chúng liếc đôi mắt to cộ dò ra ngươi. Ngươi sẽ bị nuốt như miếng bánh bí bủng vậy, ực một cái là xong!”
            “Nhưng ăn thịt người thì thật khủng khiếp!” Sophie kêu lên. “Thật đáng sợ! Sao không ai ngăn chúng lại?”
            “Vậy ai xin đi ngăn chúng chứ?” Chú KLTBTT hỏi.
            “Ông không được à?” Sophie hỏi lại.
            “Không đời nào nhé!” Chú KLTBTT kêu lên. “Cả đám khổng lồ ăn thịt người ấy đều rất to, rất dữ! Chúng bự gấp hai và có hai lần chiều cao quý tộc của ta!”
            “Chúng cao gấp đôi ông á!” Sophie la lên.
            “Dễ thế lắm,” Chú KLTBTT đáp. “Ngươi nhìn chúng khi chúng ở xa, chứ chờ chúng tới gần ngươi xem. Bọn khổng lồ ấy cao ít nhất là 50 foot[10], lại còn cơ to bắp bự nữa chứ. Ôi trời ơi, ta chỉ là một tên bé tí teo. Một tên còi còng cọc. Cao 24 foot thì chỉ là hạt bùn ở cái Xứ sở Khổng lồ này.”
            “Ông không nên nghĩ về chuyện đó tệ hại thế,” Sophie bảo. “Cháu nghĩ ông vầy cũng được. Thậm chí ngón chân ông to có kém mớ xúc xích là bao đâu.”
            “To hơn ấy chứ,” Chú KLTBTT đáp, có vẻ hài lòng. “Chúng phải bự bằng búa tạ ấy chứ.”
            “Thế có bao nhiêu tên khổng lồ ngoài kia?” Sophie hỏi.
            “Chín cả thảy,” Chú KLTBTT đáp.
            “Thế có nghĩa là,” Sophie đáp lại, “ở nơi nào đó trên thế gian này, cứ mỗi tối lại có chín người khốn khổ bị bắt mang đi, rồi bị ăn tươi nuốt sống.”
            “Nhiều hơn ấy chứ,” Chú KLTBTT bảo. “Việc đó còn tùy, như cháu thấy đấy, vào việc đậu người to bao nhiêu. Đậu người Nhật rất nhỏ, vậy nên một gã khổng lồ phải xơi khoảng sáu tên Nhựt Bổn thì mới no được. Đậu người khác như Na-uy hay đám Yankee-Doodle[11] thì bự hơn nhiều, và thường chỉ cần hai hay ba tên là đủ.”
            “Nhưng mấy tên khổng lồ kinh dị này có đi tới mọi nước trên thế giới không?” Sophie hỏi.
            “Mọi nước, trừ Hi Lạp ra, đều được viếng thăm không lúc này thì lúc khác,” Chú KLTBTT trả lời. “Nước nào bị một gã khổng lồ thăm viếng thì còn tùy thuộc vào việc hắn cảm thấy thế nào. Nếu trời ấm áp, và gã khổng lồ ấy thấy nóng như đang ở trên chảo mỡ, thì hắn sẽ phóng tới khu cùng cực bắc, tóm một hay hai tên Esquimo để làm mát người. Một tên Esquimo béo mập, với bọn khổng lồ, chả khác gì kem que với đám người các cháu cả.”
            “Cháu sẽ nhớ chuyện đó,” Sophie bảo.
            “Và rồi, nếu là một đêm buốt giá, tên khổng lồ kia sẽ run lên vì lạnh, hắn sẽ hướng mũi mình tới những vùng đất nóng đổ mồ hôi, lùng vài tên Hottentot[12] để làm ấm mình.”
            “Thật kinh dị quá đi thôi,” Sophie lại bảo.
            “Không gì khiến một tên khổng lồ đang lạnh lại ấm lên bằng một tên Hottentot nóng bỏng cả,” Chú KLTBTT đáp lại.
            “Vậy nếu ông đặt cháu xuống đất, rồi cháu đi ra ngoài,” Sophie hỏi, “thì liệu bọn chúng có ăn thịt cháu không?”
            “Ăn cái vèo ấy chứ!” Chú KLTBTT kêu lên. “Ngoài ra, cháu nhỏ quá nên bọn chúng chả cần phải nhai. Tên đầu tiên nhòm thấy cháu sẽ dùng ngón tay nhặt cháu lên, và rồi ực một cái, cháu sẽ rơi tỏm vào bụng hắn như giọt nước cống!”
            “Thôi ta vào trong thôi,” Sophie bảo. “Cháu ghét nhìn bọn chúng lắm rồi.”
           


[1] Chơi chữ ‘Turkey’ (TNK) và ‘turkey’ (gà tây).
[2] Diddly, tính từ tạo ra từ động từ diddle – nghĩa là lừa đảo. Ở đây theo văn cảnh thì hiểu là ngon ăn.
[3] Chơi chữ ‘Greece’ (HL) và ‘greasy’ (thớ lợ).
[4] Tiếng Anh có cụm từ Panama hat – dùng để chỉ loại mũ phớt bằng rơm có xuất xứ từ Ecuador. Ở đây Gã khổng lồ chơi chữ.
[5] Chơi chữ Wales (xứ Wales) và whales (cá voi).
[6] Chơi chữ Jersey (hạt Jersey) và jersey/cardigan (áo dệt kim, áo len đan)
[7] Dane và Labrador đều là tên các giống chó. Dane còn có nghĩa là người Đan Mạch. Còn Labrador là một quận phía bắc tỉnh Newfoundland và Labrador (Canada).
[8] Wellington (boots) trong tiếng Anh có nghĩa là ủng đi mưa.
[9] Chơi chữ với từ ‘right’ – vừa có nghĩa là ‘đúng’, vừa có nghĩa là ‘phải’ (trái nghĩa với left – bên trái)
[10] 1 foot = 0.3048 m, nghĩa là bọn khổng lồ cao chừng 50 foot = 15.24 m.
[11] Tên một bài hát nổi tiếng của người Mỹ gốc Âu trong cuộc chiến Bảy năm (1754-1763), từ đó dùng để chỉ người Mỹ da trắng. Ở đây có thể dịch là ‘đám Mẽo’.
[12] Từ cũ, ý miệt thị dùng để chỉ người Khoikhoi, một bộ tộc ở Namibia và Nam Phi, có thể dịch là ‘mọi đen’. Nay dùng để chỉ động thực vật ở vùng đó.

BFG -- Chapters 3 & 4

VỤ BẮT CÓC

Nằm dưới chăn, Sophie chờ đợi.
            Sau đó đâu chừng một phút, cô giở mép chăn, liếc ra ngoài.
            Lần thứ hai trong đêm, máu trong người cô như muốn hóa thành băng, và cô muốn hét lên, nhưng chẳng phát ra được tiếng nào. Kia, ngay tại cửa sổ, nơi rèm cửa đã được vén sang một bên, là gương mặt nhăn nheo nhợt nhạt dài thoòng của Gã khổng lồ, đang nhìn chằm chằm vào. Đôi mắt đen sáng chói của hắn soi vào giường của Sophie.
            Phút giây sau, một bàn tay to lớn cùng những ngón tay nhợt nhạt liền bò qua cửa sổ. Theo sau nó là một cánh tay, to như thân cây, và rồi cánh tay, bàn tay, những ngón tay đó vươn qua phòng tiến thẳng về phía giường của Sophie.
            Lần này Sophie thực sự hét lớn, nhưng chỉ trong giây lát, vì bàn tay to lớn kia đã nhanh chóng chộp lấy tấm chăn của cô và tiếng hét bị tắt lịm dưới mớ ra trải giường.
            Sophie, vẫn khom người núp dưới tấm chăn, liền cảm thấy những ngón tay khỏe mạnh kia túm lấy cô, nhấc cô ra khỏi giường, khỏi mớ chăn ra gối nệm, và mang ra ngoài cửa sổ.

Nếu bạn nghĩ tới thứ gì ghê rợn hơn thế xảy đến với bạn vào lúc nửa đêm, thì hãy nghe tiếp chuyện này.
            Điều kinh khủng là Sophie biết chính xác chuyện gì đang xảy ra dù cô không nhìn thấy gì cả. Cô biết là Con quái vật (hay Gã khổng lồ) kia, với bộ mặt nhăn nheo nhợt nhạt dài thoòng to bự và đôi mắt nguy hiểm, đã lôi cô ra khỏi giường ngay giữa canh ba và giờ mang cô ra ngoài cửa sổ, bít bùng trong tấm chăn.
            Chuyện xảy ra tiếp theo chính xác là thế này. Khi Gã khổng lồ tóm được Sophie mang ra ngoài rồi, thì hắn liền tém lại tấm chăn để chỉ cần một tay là có thể cầm được cả bốn góc, với Sophie bị cầm tù bên trong. Tay kia hắn vớ lấy cái va li và cây kèn trumpet dài, rồi chạy mất.

Sophie, trong lúc ngọ nguậy bên trong tấm chăn, vẫn cố thò đầu nhìn ra ngoài qua khe hở nhỏ dưới bàn tay Gã khổng lồ. Cô nhìn lom lom ra xung quanh.
            Cô thấy những ngôi nhà trong làng trôi vùn vụt hai bên đường. Gã khổng lồ đang lao nhanh dọc phố High Street. Hắn chạy nhanh đến nỗi chiếc áo choàng màu đen kêu phần phật phía sau, y như tiếng cánh chim đập vậy. Mỗi bước của hắn bằng cả cái sân quần vợt. Hắn chạy ra khỏi làng, và chả mấy chốc bọn họ đã băng qua các cánh đồng vằng vặc ánh trăng. Hàng dậu chia cắt các cánh đồng không nhằm nhò gì với hắn. Gã khổng lồ chỉ sải chân một bước là chạy băng qua chúng. Một con sông rộng xuất hiện trên đường hắn đi. Hắn cũng chỉ sải chân một bước là bay vọt sang bờ bên kia.
            Sophie lui cui trong chăn, mắt dòm ra bên ngoài. Cô bị nảy lên như túi khoai tây trên chân Gã khổng lồ. Bọn họ băng qua đồng ruộng, bờ dậu, sông suối, và được một lát, thì ý nghĩ ghê rợn sau xuất hiện trong đầu Sophie. Cô tự nhủ, Gã này chạy nhanh, là vì hắn đói, hắn muốn về nhà càng sớm càng tốt, và rồi hắn sẽ xơi mình vào bữa sáng mai.

CÁI HANG

Gã khổng lồ cứ chạy, chạy mãi. Nhưng giờ có sự thay đổi kỳ lạ trong lần chạy của hắn. Hắn thình lình tăng tốc nhanh hơn. Hắn chạy càng lúc càng nhanh và chả mấy chốc với tốc độ đó, cảnh vật bỗng nhòe đi. Gió đập vào má Sophie bỏng rát. Nó khiến cô chảy cả nước mắt. Nó quất qua đầu cô và rít bên tai cô. Cô không còn thấy chân Gã khổng lồ chạm đất nữa. Cô có cảm giác kỳ dị là chúng đương bay. Không thể bảo là họ đang ở trên đất liền hay trên biển. Gã khổng lồ có một thứ phép thuật nào đó ở chân. Gió đập mặt vào mặt Sophie, mạnh đến nỗi cô phải hụp đầu xuống, chui vào chăn để đầu mình không bị thổi bay đi mất.
            Có khi nào họ đang vượt biển không nhỉ? Sophie cảm thấy dĩ nhiên là thế. Cô lui cui trong chăn, lắng nghe tiếng gào của gió. Nó làm thế đâu chừng vài giờ.
            Rồi đột nhiên gió ngừng gào. Tốc độ chạy bắt đầu chậm lại. Sophie có thể thấy chân của Gã khổng lồ lại nện mạnh xuống đất. Cô thò đầu ra ngoài chăn để nhìn. Họ đang ở một miền đất đầy rừng rậm và sông hồ cuồn cuộn. Gã khổng lồ nhất định đã giảm tốc và giờ đang chạy chậm lại như bình thường, dù bình thường là một từ xuẩn ngốc khi dùng để mô tả một gã khổng lồ chạy nước đại. Hắn phóng qua cả tá sông ngòi. Hắn ầm ầm đi qua một khu rừng lớn, xuôi xuống một thung lũng, vòng lên cả dãy đồi trọc như tấm bê tông, rồi sải bước vượt qua miền hoang mạc vắng vẻ, không thuộc trái đất này. Đất ở đây bằng phẳng, có màu vàng nhạt. Những tảng đá to màu xanh nằm rải rác, còn cây chết thì ở khắp mọi nơi, trông như những bộ xương khô. Mặt trăng đã biến mất từ lâu và giờ ánh bình minh đang hửng sáng.
            Sophie, vẫn ngồi trong chăn nhìn ra, thình lình thấy trước mặt mình một ngọn núi to lởm chởm. Ngọn núi có màu xanh đen, và quanh nó bầu trời đang tràn trề, lấp lánh ánh sáng. Những mảng sáng vàng nhạt đang túa ra giữa những đám mây trắng như sương giá, và bên sườn núi, mặt trời buổi sớm đang mọc lên với màu đỏ như máu.
            Tới dưới chân núi, Gã khổng lồ dừng lại. Hắn hồng hộc thở. Bộ ngực to lớn của hắn nhấp nhô trồi sụt. Hắn ngừng lại để lấy hơi.

Ngay trước mặt họ, nằm cạnh ngọn núi, Sophie có thể thấy một tảng đá to tròn. Nó to bằng cái nhà. Gã khổng lồ tiến đến, lăn tảng đá sang một bên, dễ dàng như lăn một quả bóng, và giờ, nơi tảng đá từng đứng chặn, xuất hiện một lỗ đen rộng hoác. Lỗ đen lớn đến nỗi Gã khổng lồ thậm chí chẳng cần phải cúi đầu khi bước qua. Hắn bước vào cái lỗ đen, một tay cầm Sophie, tay kia cầm kèn và cái va li.
            Sải bước vào xong, hắn liền dừng lại, lăn tảng đá trở lại chỗ cũ để lối vào hang động bí mật của mình hoàn toàn được giấu kín, không thể thấy từ bên ngoài.
            Giờ khi lối đi đã được bịt kín, thì không một tia sáng từ ngoài nào có thể tràn vào hang. Tất cả đều tối đen.
            Sophie thấy mình được hạ xuống đất. Rồi Gã khổng lồ bỏ cái chăn ra. Bước chân hắn tản ra xa. Sophie ngồi đó trong bóng tối, run lên vì sợ.
            Hắn sắp xơi mình đây, cô tự nhủ. Hắn có thể ăn sống nuốt tươi mình, như thế này này.
            Hoặc hắn phải luộc mình trước đã.
            Hoặc hắn sẽ chiên mình lên. Hắn sẽ thả mình như lát thịt giăm bông vào cái chảo to chứa đầy mỡ sôi xèo xèo.
            Một tia sáng thình lình chiếu rọi khắp nơi. Sophie chớp mắt rồi chăm chú nhìn.
            Cô thấy một cái hang to tướng với mái đá thật cao.
            Tường bốn phía được kê đầy những kệ, trên kệ là hàng hàng lớp lớp những chai lọ thủy tinh. Lọ có ở khắp mọi nơi. Chúng được xếp đầy các góc. Chúng chiếm hết mọi ngóc ngách của cái hang.
            Giữa hang là cái bàn cao 12 foot và một cái ghế tương xứng.

Gã khổng lồ cởi chiếc áo khoác đen ra, treo nó lên tường. Sophie thấy bên dưới chiếc áo khoác hắn mặc là một cái áo giống kiểu áo sơ mi không cổ, và một cái áo chẽn bằng da bẩn thỉu, mà hình như chả có cái cúc nào. Quần hắn mặc có màu xanh lục đã bạc màu, và quá ngắn so với cặp giò. Chân hắn mang một đôi xăng-đan trông rất buồn cười, bởi không hiểu vì sao, đầu dép lại bị cắt một lỗ to để ngón chân thò ra. Sophie, đang lui cui trên nền hang trong bộ váy ngủ của mình, bèn ngước lên nhìn hắn qua cặp kính gọng thép dày cui của mình. Cô run lên như lá cây trong gió, và một luồng khí lạnh như băng chạy dọc sống lưng cô.
            “Ha!” Gã khổng lồ kêu lên, bước lại gần, hai tay xoa vào nhau. “Ta có gì đây nào?” Giọng hắn ầm vang khắp hang hệt như tiếng sấm.