Wednesday, October 16, 2013

Matilda -- Chapters 12 & 13



LAVENDER

            Giữa tuần đầu học kỳ, Cô Honey bảo cả lớp, “Cô có tin quan trọng cho các em đây, vậy nên hãy lắng nghe cẩn thận. Em nữa, Matilda. Đặt sách xuống và chú ý chút nào.”
            Những gương mặt nhỏ nhắn háo hức nhìn lên và lắng nghe.
            “Thói quen của cô Hiệu trưởng,” Cô Honey nói tiếp, “là đứng lớp một tiết mỗi tuần. Cô ấy làm thế với mọi lớp trong trường này, và mỗi lớp vào một ngày, một giờ nhất định. Lớp chúng ta luôn là hai giờ chiều thứ Năm, ngay sau giờ ăn trưa. Vậy nên ngày mai vào lúc hai giờ, Cô Trunchbull sẽ đứng lớp thay cô một buổi. Dĩ nhiên, cô cũng sẽ ở đây, nhưng chỉ là người im lặng dự thính. Các em hiểu chưa?”
            “Vâng, thưa Cô Honey,” bọn trẻ ríu rít đáp.
            “Cô có lời này cảnh báo các em,” Cô Honey bảo. “Cô Hiệu trưởng rất nghiêm khắc về mọi chuyện. Hãy đảm bảo quần áo các em sạch sẽ, mặt mũi sạch sẽ, tay chân sạch sẽ. Chỉ nói khi được phép nói. Khi cô ấy hỏi, hãy đứng lên ngay trước khi các em trả lời. Đừng tranh luận. Đừng cãi giả. Đừng tỏ ra tếu táo. Nếu làm thế, các em sẽ khiến cô ấy nổi giận, mà khi cô Hiệu trưởng giận, các em hãy liệu hồn đấy.”
            “Nhất định là thế rồi,” Lavender thì thào.
            “Cô dám chắc,” Cô Honey nói, “là cô ấy sẽ kiểm tra các em về những gì các em dự kiến học được trong tuần này, tức bảng cửu chương nhân hai. Vì thế cô thật lòng khuyên các em tối nay về nhà nên học thuộc nó. Rồi nhờ bố hay mẹ khảo bài hộ các em.”
            “Cô ấy còn kiểm tra chúng em gì nữa ạ?” ai đó hỏi.
            “Đánh vần,” Cô Honey đáp. “Ráng nhớ mọi từ các em đã học trong vài ngày qua. Còn điều nữa. Bình nước và cái ly phải luôn để trên bàn này khi cô Hiệu trưởng tới. Cô ấy không bao giờ giảng bài mà không dùng nước. Giờ ai chịu trách nhiệm về việc đó nào?”
            “Em ạ,” Lavender nói ngay.
            “Rất tốt, Lavender,” Cô Honey bảo. “Vậy đó là việc của em – xuống bếp, lấy bình, rót đầy nước và đặt nó lên bàn này cùng một cái ly không, sạch sẽ, ngay trước khi giờ học bắt đầu.”
            “Vậy nếu bình không có trong bếp thì sao ạ?” Lavender hỏi.
            “Có cả tá bình và ly của cô Hiệu trưởng ở trong bếp,” Cô Honey bảo. “Chúng được dùng khắp trong trường này mà.”
            “Em không quên đâu,” Lavender bảo. “Em hứa sẽ không quên.”
            Đầu óc mưu mô của Lavender liền điểm qua các khả năng mà công tác châm nước mở ra cho cô. Cô mong làm được điều gì đó thật sự anh hùng. Cô ngưỡng mộ Hortensia, cô bé lớn hơn, đến phát cuồng vì những thành tích táo bạo mà cô bé làm được trong trường. Cô cũng ngưỡng mộ Matilda, người bắt cô hứa giữ bí mật về vụ con vẹt cô bé dàn cảnh ở nhà và vụ đánh tráo dầu dưỡng khiến đầu tóc bố cô bị tẩy màu. Giờ tới phiên trở thành anh thư, nhưng chỉ khi cô vạch ra được một âm mưu khôn khéo.
            Chiều hôm đó trên đường từ trường về nhà, cô bắt đầu suy tính tới lui các khả năng khác nhau, và cuối cùng khi mầm mống tư tưởng sáng lạn lóe lên, cô bắt đầu phát triển nó, lên kế hoạch cẩn thận hệt như Công tước xứ Welllington làm trước trận Waterloo vậy. Rõ ràng kẻ thù lần này không phải Napoleon. Song bạn không thể khiến bất cứ ai trong trường Crunchem Hall thừa nhận rằng bà Hiệu trưởng là kẻ địch kém cạnh so với vị tướng người Pháp cả. Càng tập luyện càng thành thạo, Lavender tự nhủ, và càng kín đáo thì kỳ tích càng chóng thành công.
             Có một cái ao lầy lội ở cuối vườn nhà Lavender và đó là nhà của bọn sa giông. Sa giông, dù hay xuất hiện trong ao hồ ở Anh, lại ít khi được người thường nhìn thấy, vì chúng là sinh vật nhút nhát và thích tối. Đó là loài xấu kinh khủng, xấu tới mức khó tin, trông khá giống cá sấu con nhưng có đầu ngắn hơn. Chúng là loài vô hại nhưng nhìn vào, chả ai cho là thế. Chúng dài khoảng 6 inch, rất nhầy nhụa, với làn da màu xám hơi xanh ở bên trên và cái bụng màu cam ở phía dưới. Thật ra, chúng là loài lưỡng cư, tức sống được trên cạn lẫn dưới nước.
            Tối đó Lavender lần ra cuối vườn để bắt một con sa giông. Chúng là loài di chuyển nhanh, không dễ bắt. Cô bé ngồi một lúc lâu bên bờ ao, kiên nhẫn chờ đợi cho tới khi tia được một con. Rồi, dùng nón làm lưới, cô vục xuống và túm lấy nó. Cô đã lót rêu vào trong hộp bút để bỏ con vật vào, nhưng phát hiện ra là lấy nó ra khỏi nón rồi bỏ vào hộp bút thì không dễ chút nào. Nó uốn éo, ngọ nguậy như thủy ngân, và ngoài ra, cái hộp chỉ vừa đủ dài để chứa nó. Cuối cùng khi nhốt nó vào hộp được rồi, cô còn phải cẩn thận để đuôi nó không bị nắp hộp kẹp khi đóng hộp lại. Một cậu bé hàng xóm, tên Rupert Entwistle, đã bảo cô rằng, nếu cô làm đứt đuôi một con sa giông, thì cái đuôi vẫn sống và tìm tới một con sa giông khác, to gấp mười lần con cũ. Nó có thể có kích cỡ bằng một con cá sấu. Lavender không tin chuyện đó lắm, nhưng cô không liều để cho nó xảy ra.
            Rốt cuộc cô cố đóng nắp hộp lại và con sa giông là của cô. Rồi, suy đi tính lại, cô lại mở nó ra, chỉ một khoảng nho nhỏ để con vật có thể thở được.
            Hôm sau cô cho vũ khí bí mật của mình vào cặp sách, mang tới trường. Lòng cô rộn rã niềm phấn khích. Cô thèm được kể cho Matilda nghe về kế hoạch tác chiến của mình. Thật lòng cô muốn nói cho cả lớp biết cơ. Nhưng cuối cùng cô quyết định không nói cho ai hết. Làm thế tốt hơn vì không ai, cả khi phải chịu hình phạt tàn khốc nhất, có thể khai ra cô là thủ phạm.
            Giờ ăn trưa tới. Hôm nay có xúc xích và đậu xào, món Lavender thích, nhưng cô không nuốt nổi.
            “Em ổn cả chứ, Lavender?” Cô Honey, từ phía đầu bàn, hỏi.
            “Em ăn sáng no quá,” Lavender đáp, “Em không ăn nổi nữa.”
            Ngay sau bữa trưa, cô bé lao vội xuống bếp và lấy một trong số những chiếc bình nổi tiếng của mụ Trunchbull. Đó là một chiếc bình lớn, bụng phình to, làm bằng sứ tráng men xanh. Lavender đổ đầy nửa bình nước, rồi đem cùng với cái ly vào lớp và đặt lên bàn giáo viên. Lớp học vẫn còn trống. Nhanh như chớp, Lavender lấy hộp bút từ trong cặp ra và đẩy nhẹ nắp hộp. Con sa giông vẫn nằm yên. Thật cẩn thận, cô bé nâng chiếc hộp lên ngang miệng bình, kéo hết nắp hộp ra, và tuồn con sa giông vào đấy. Có tiếng bòm bõm khi nó chạm mặt nước, rồi nó quẫy đạp lung tung vài giây trước khi chịu nằm yên. Và giờ, để con sa giông cảm thấy đây là nhà của mình, Lavender quyết định thả hết số rêu ở trong hộp vào bình.
            Chiến tích đã hoàn tất. Mọi việc đã sẵn sàng. Lavender bỏ bút vào cái hộp ướt và để nó lại ngay ngắn trên bàn. Rồi cô đi ra, hòa mình vào đám nhóc ngoài sân cho tới khi giờ học bắt đầu.
           
BÀI KIỂM TRA HẰNG TUẦN

            Đúng hai giờ chiều, lớp học tập trung lại, có cả Cô Honey, người để ý thấy chiếc bình và cái ly đã đâu vào đấy. Rồi cô kiếm một chỗ để đứng ở cuối lớp. Mọi người chờ đợi. Đột nhiên thân hình khổng lồ của bà Hiệu trưởng, trong chiếc áo khoác có thắt lưng và chiếc quần túm màu xanh, diễu vào.
            “Chào bọn nhóc,” mụ gầm lên.
            “Chào Cô Trunchbull,” bọn nhóc ríu rít đáp.
            Bà Hiệu trưởng đứng trước lớp, chân dạng ra, tay chống hông, mắt gườm gườm nhìn đám con trai con gái nhỏ nhít đang ngồi lo lắng tại bàn trước mặt mụ.
            “Cảnh tượng thật không đẹp chút nào,” mụ nói, biểu hiện một vẻ chán ghét khủng khiếp, như thể mụ đang nhìn thấy thứ gì đó một con chó vừa phụt ra ngay giữa sàn nhà. “Bọn bay quả là đám mụn cóc nhỏ nhít đáng buồn nôn.”
            Mọi người biết ý nên im lặng.
            “Nó làm tao mắc ói,” mụ nói tiếp, “khi nghĩ rằng tao sắp phải chịu đựng đám rác rưởi bọn bay ở cái trường này trong 6 năm tới. Tao có thể thấy mình phải đuổi càng nhiều đứa trong đám bọn bay càng nhanh càng tốt để cứu mình khỏi phát điên lên.” Mụ dừng lại, khụt khịt vài cái. Đó là tiếng động lạ lùng. Bạn có thể nghe thấy tiếng đó, nếu đi ngang chuồng ngựa vào giờ ngựa được cho ăn. “Tao đồ rằng,” mụ tiếp tục, “bố mẹ bọn bay đều bảo bọn bay rất tuyệt. Ồ, còn tao ở đây thì nói ngược lại, và bọn bay tốt nhất là nên tin tao đi. Tất cả, đứng lên nào!”
            Bọn nhóc nhanh chóng đứng lên.
            “Giờ giơ tay ra phía trước. Và khi tao đi ngang qua, tao muốn bọn bay ngửa tay lên để tao xem xem mu và lòng bàn tay có sạch hay không.”
            Mụ Trunchbull bắt đầu chầm chậm diễu ngang qua các dãy bàn, săm soi nhìn tay. Tất cả đều ổn cho tới khi mụ tới chỗ thằng nhóc nhỏ xíu ngồi ở dãy bàn thứ hai.
            “Tên mày là gì?” mụ sủa.
            “Nigel,” thằng nhóc đáp.
            “Nigel gì?”
            “Nigel Hicks,” thằng nhóc lại đáp.
            “Nigel Hicks gì cơ?” mụ Trunchbull gầm lên. Mụ gầm to đến độ suýt thổi thằng nhóc bay văng qua cửa sổ.
            “Vậy thôi,” Nigel đáp. “Trừ phi cô muốn biết tên đệm của em.” Đó là một thằng nhóc nhỏ thó can đảm, và ta có thể thấy là nó đang cố tỏ ra không sợ mụ Gorgon[1] đang đứng sừng sững trước mặt.
            “Tao không muốn biết tên mày, đồ mụn phồng rộp!” Mụ Gorgon rống lên. “Tên tao là gì nào?”
            “Cô Trunchbull ạ,” Nigel đáp.
            “Vậy hãy dùng nó khi nói chuyện với tao! Giờ làm lại nào. Tên mày là gì?”
            “Nigel Hicks, thưa Cô Trunchbull,” Nigel đáp.
            “Tốt hơn rồi,” mụ Trunchbull bảo. “Tay mày bẩn lắm, Nigel ạ! Lần cuối mày rửa chúng là khi nào?”
            “Ồ, để em nghĩ đã,” Nigel đáp. “Nhớ chính xác thì cũng hơi khó đấy. Có thể là hôm qua hoặc hôm kia.”
            Toàn thân và mặt mũi mụ Trunchbull dường như trương cả lên, như thể được bơm bằng chiếc bơm xe đạp.
            “Tao biết mà!” mụ rống lên. “Tao biết ngay khi thấy mày mà, rằng mày chả phải thứ gì khác ngoài một mẩu rác bẩn thỉu! Bố mày làm nghề gì, công nhân móc cống à?”
            “Bố em là bác sĩ,” Nigel đáp. “Và là một bác sĩ vui vẻ tốt bụng. Ông ấy bảo dù sao người chúng ta đều đầy vi trùng, nên bẩn một tí cũng chả chết ai cả.”
            “Tao mừng hắn không phải là bác sĩ của tao,” mụ Trunchbull bảo. “À mà xin mạn phép hỏi cái, vạt áo trước của  mày sao lại dính đậu xào thế?”
            “Bọn em xơi món ấy vào giờ ăn trưa mà, thưa Cô Trunchbull.”
            “Và mày thường xuyên dây đồ ăn trưa lên áo hả Nigel? Đó có phải là điều ông bố bác sĩ nổi tiếng của mày dạy mày hay không?”
            “Đậu xào khó ăn lắm, Cô Trunchbull ạ. Chúng cứ rớt khỏi nĩa của em.”
            “Trông mày kinh lắm!” mụ Trunchbull gào lên. “Mày giống như một xưởng vi trùng di động ấy! Tao không muốn thấy mặt mày hôm nay! Đi vào góc kia, đứng co giò lên và úp mặt vào tường!”
            “Nhưng thưa Cô Trunchbull…”
            “Đừng cãi tao, thằng nhóc, không tao bắt mày đứng bằng đầu bây giờ! Giờ làm như lời tao bảo!”
            Nigel đi tới góc tường.
            “Giờ ở yên đó nghe thằng nhóc, trong khi tao kiểm tra xem mày đánh vần thế nào, xem mày có học hành gì suốt tuần qua hay không. Và không được quay mặt lại để trả lời tao đâu đấy. Giữ nguyên cái mặt nhỏ thó dơ dáy của mày úp vào tường. Giờ đánh vần từ ‘viết’ nào.”
            “Từ nào cơ?” Nigel hỏi. “Việc cô dùng bút để làm hay điều trái nghĩa với sai trái?[2]” Thằng nhóc ngẫu nhiên là một đứa thông minh hơn mức bình thường, và mẹ nó còn chịu khó dạy nó đánh vần và đọc trước ở nhà nữa.
            “Việc dùng bút để làm ấy, đồ nhỏ thó ngu ngốc ạ.”
            Nigel đánh vần đúng từ đó, khiến mụ Trunchbull ngạc nhiên. Mụ nghĩ mụ đã cho thằng nhóc một từ khó, từ nó chưa học qua, và thấy bực khi nó đọc được.
            Rồi Nigel nói, chân vẫn co lên và mặt vẫn úp vào tường, “Hôm qua Cô Honey dạy bọn em cách đánh vần một từ mới rất dài.’
            “Đó là từ gì vậy?” mụ Trunchbull nhẹ nhàng hỏi. Giọng mụ càng nhẹ nhàng thì càng nguy hiểm, nhưng Nigel không biết thế.
            “‘Sự khó khăn,’” Nigel đáp. “Mọi người trong lớp ai cũng đọc được từ đó.”
            “Vớ vẩn,” mụ Trunchbull bảo. “Bọn bay không học từ dài như thế cho tới khi được 8, 9 tuổi. Và đừng bảo tao là mọi người trong lớp đều đọc được từ đó. Mày đang dối tao đấy, Nigel ạ.”
            “Cô kiểm tra đi,” Nigel đáp, tóm lấy một cơ hội tệ hại. “Kiểm tra bất cứ ai mà cô thích.”
            Đôi mắt nhấp nháy đầy nguy hiểm của mụ Trunchbull đảo khắp phòng. “Mày,” mụ bảo, chỉ tay vào con bé nhỏ thó hơi ngớ ngẩn, tên Prudence, “đánh vần từ ‘sự khó khăn’ nào.”
            Thật đáng kinh ngạc, Prudence đánh vần trúng phóc và không hề có chút ngập ngừng.
            Mụ Trunchbull hoàn toàn bị dội. “Hừm!” mụ khụt khịt nói. “Tao đồ rằng Cô Honey đã phí phạm cả buổi trời để dạy bọn bay đánh vần được mỗi từ đó?”
            “Ồ không đâu,” Nigel lảnh lót đáp. “Cô Honey chỉ mất có 3 phút và bọn em chả đứa nào quên cả. Cô ấy dạy rất nhiều từ trong vòng có 3 phút.”    
“Và phương pháp thần diệu đó chính xác là gì vậy, hở Cô Honey?” bà Hiệu trưởng hỏi.
“Em sẽ cho cô thấy,” Nigel can đảm lại bắt đầu líu lo, mong Cô Honey tới giải vây. “Em có thể cho chân xuống, và quay mặt lại, khi chỉ cho cô thấy, được không?”
“Mày không được phép làm gì hết!” mụ Trunchbull sủa trả. “Đứng nguyên đấy và nói tao nghe xem.”
“Thôi được,” Nigel đáp, lắc lư điên cuồng trên một chân. “Cô Honey dạy bọn em bài hát nhỏ về mọi từ, và bọn em đều hát, thế là bọn em học từ mà chả mất nhiều thời gian. Cô có thích nghe bài về ‘sự khó khăn’ không?”
“Tao mê chết đi được,” mụ Trunchbull đáp bằng chất giọng đầy châm biếm.
“Là thế này,” Nigel bảo.

“Bà SỜ, Bà Ự, Bà KHÓ KHÓ KHÓ
Bà KHỜ, Bà ĂN, Bà KHĂN KHĂN KHĂN.

Thế là thành ra từ ‘sự khó khăn.’”
“Nghe cực kỳ ngớ ngẩn!” mụ Trunchbull khụt khịt nói. “Sao lại là mấy con mụ kết hôn rồi cơ chứ?[3] Và dù sao các người không được dạy thơ ca khi dạy đánh vần. Tương lai phải dẹp ngay, Cô Honey ạ.”
“Nhưng việc đó để dạy bọn trẻ học vài từ khó hơn thì rất tuyệt ạ,” Cô Honey thì thào đáp trả.
            “Đừng cãi tôi, Cô Honey!” bà Hiệu trưởng gầm lên. “Làm y như tôi bảo! Giờ tao sẽ kiểm tra cả lớp bảng cửu chương để xem xem Cô Honey còn dạy bọn bay bất cứ thứ nào theo kiểu đó nữa không,” mụ Trunchbull quay trở lại chỗ ngồi nơi đầu lớp, và tia nhìn độc địa của mụ lia chầm chậm qua các dãy bàn nơi đám học trò nhỏ xíu đang ngồi. “Mày!” mụ gào lên, chỉ tay vào thằng nhóc tên Rupert ngồi ở dãy bàn đầu. “Hai lần bảy là mấy?”
            “Mười sáu,” Rupert trả lời, với vẻ thờ ơ ngốc nghếch.
            Mụ Trunchbull bắt đầu chầm chậm, nhẹ nhàng tiến tới cạnh Rupert, theo cách của hổ cái rình một con nai nhỏ. Rupert thình lình ý thức được dấu hiệu nguy hiểm và vội vã trả lời lại. “Là 18!” nó hét lên. “Hai lần bảy là mười tám, không phải mười sáu.”
            “Đồ ốc sên nhỏ bé ngu ngốc!” mụ Trunchbull gầm lên. “Đồ óc bã đậu! Đồ chuột không não! Đồ đầu đất sét!” Giờ mụ lừng lững tiến tới đằng sau Rupert, rồi thình lình mụ vươn cánh tay có kích cỡ bằng cái vợt ten-nít ra, tóm lấy tóc thằng bé. Tóc Rupert có màu vàng óng. Mẹ nó nghĩ tóc nó rất đẹp và vui vẻ để tóc con mọc thật dài. Mụ Trunchbull ghét con trai để tóc dài ngang ngửa con gái thắt bím, tết đuôi sam, và mụ sắp cho thấy điều đó. Mụ dùng cánh tay hộ pháp nắm thật chặt mớ tóc dài của thằng Rupert, rồi nhấc cánh tay cuồn cuộn đó lên, lôi thằng bé vô vọng kia ra khỏi ghế và nhấc bổng nó lên trời.
            Rupert rú lên. Nó vặn vẹo, xoay trở, giẫy đạp, tiếp tục rú lên như lợn bị chọc tiết, còn mụ Trunchbull thì gầm gào, “Hai lần bảy là mười bốn! Hai lần bảy là mười bốn! Tao sẽ không thả ra nếu mày không nhắc lại!”
            Từ phía cuối lớp, Cô Honey hét lên, “Cô Trunchbull! Thả cậu bé xuống! Cô làm nó đau đấy! Tóc nó sắp rụng tiệt cả rồi!”
            “Sẽ là thế nếu nó không ngừng giẫy giụa!” mụ Trunchbull khụt khịt đáp. “Ở yên nào, đồ giun sán quọ quậy!”
            Thật là cảnh tượng bất thường khi nhìn thấy bà Hiệu trưởng đồ sộ đung đưa thằng nhóc nhỏ xíu trên cao, còn thằng nhóc thì quay tít mòng mòng như thứ gì đó treo nơi đầu sợi dây, mồm tiết tục hét lên inh tai nhức óc.
            “Nói đi!” mụ Trunchbull gầm lên. “Nói 2 lần 7 là 14! Nhanh lên không tao sẽ lắc lư mày lên xuống cho tới khi tóc mày rụng tiệt cả ra và bọn tao sẽ có đủ tóc để nhồi đầy ghế xô-pha đấy! Nói đi thằng kia! Nói 2 lần 7 là 14, rồi tao sẽ thả mày ra!”
            “H-h-hai lần b-b-bảy là m-m-mười bốn,” Rupert hổn hển đáp, cùng lúc đó, y như đã bảo, mụ Trunchbull buông tay và thả thằng nhóc ra, theo đúng nghĩa đen. Nó ở cách mặt đất một khoảng xa nên khi được phóng thích, nó rơi thẳng xuống đất, đít đập sàn nhà và nảy lên như quả bóng.
            “Đứng dậy và đừng rên rỉ nữa,” mụ Trunchbull sủa.
            Rupert đứng dậy, đi về phía bàn mình, hai tay xoa xoa đầu. Mụ Trunchbull quay lại phía đầu lớp. Bọn trẻ ở đây ngồi ngay đơ cán cuốc. Không ai trong số chúng từng nhìn thấy vụ nào như thế cả. Thật là một màn giải trí tuyệt hay. Nó còn hay hơn cả kịch câm, nhưng có sự khác biệt lớn. Trong phòng này có một quả bom người khổng lồ ở phía trước chúng, thứ rất có thể nổ và nổ banh xác pháo ai đó vào một lúc nào đó. Mắt bọn trẻ dán chặt vào bà Hiệu trưởng. “Tao không thích bọn nhỏ nhít,” bà ta nói. “Bọn nhỏ nhít lẽ ra không được để cho ai nhìn thấy. Bọn chúng nên được cất cho khuất mắt trong mấy cái hộp, như thể kẹp tóc, nút áo vậy. Cả đời tao tao chả thể nào hiểu được tại sao bọn con nít lại lớn chậm đến thế. Tao nghĩ bọn chúng cố tình làm thế.”
            Một thằng nhóc nhỏ xíu can đảm khác ngồi ở dãy bàn đầu bèn cất giọng nói, “Nhưng chắc chắn từng là người nhỏ bé, phải không Cô Trunchbull?”
            “Tao không bao giờ là người nhỏ bé cả,” mụ cắn cảu. “Tao to bự suốt đời và tao không hiểu sao người khác lại không thể như thế.”
            “Nhưng ban đầu cô hẳn phải là một đứa bé,” cậu bé cãi.
            “Tao, một đứa bé ấy à!” mụ Trunchbull gào lên. “Sao mày dám đề cập tới chuyện đó chứ! Thật láo lếu! Thật hỗn hào, quỷ thần ơi! Mày tên gì thằng kia? Đứng lên ngay khi nói chuyện với tao!”
Cậu bé đứng dậy. “Tên em là Eric Ink, thưa Cô Trunchbull,” cậu đáp.
“Eric gì cơ?” mụ Trunchbull gào.
“Ink ạ,” cậu bé đáp.
“Đừng làm con lừa, thằng nhóc! Không có cái tên nào như thế cả![4]
“Cô tra trong danh bạ điện thoại ấy,” Eric đáp. “Cô sẽ thấy tên bố em ngay dưới từ Ink.”
“Vậy thì tốt,” mụ Trunchbull đáp. “Mày có thể là Ink, cậu nhỏ ạ, nhưng tao báo cho mày hay. Mày không phải không tẩy rửa được đâu. Tao sẽ sớm nghiền mày thành bún nếu mày còn làm ra vẻ thông minh. Đánh vần cái gì đi.”
“Em không hiểu,” Eric đáp lại. “Cô muốn em đánh vần từ gì cơ?”
“Đánh vần cái gì, đồ ngu! Đánh vần từ ‘cái gì’!”
“K-Á-I-D-Ì,” Eric trả lời thật nhanh.
Có một sự im lặng đáng sợ.
“Tao cho mày cơ hội nữa,” mụ Trunchbull bảo, không động đậy.
“Ồ em biết rồi,” Eric đáp, “nó có chữ C trong đó. C-Á-I-D-Ì. Dễ ợt.”
Chỉ sải chân hai bước là mụ Trunchbull đã tới ngay sau bàn Eric, và kìa mụ đứng, như cây cột tử thần phủ bóng xuống thằng nhóc vô vọng. Eric sợ hãi liếc qua vai, nhìn con quái vật đứng sau lưng mình. “Em đọc đúng mà, đúng không?” Thằng nhóc lo sợ thì thào nói.
“Mày sai rồi!” mụ Trunchbull sủa. “Thật ra mày tạo ấn tượng cho tao chả khác gì một vết rỗ hoa nhỏ xíu hiểm độc cả, thứ lúc nào cũng sai bét bè be ra! Mày ngồi sai! Nhìn sai! Nói sai! Mày sai tuốt tuồn tuột! Tao cho mày cơ hội nữa! Đánh vần ‘cái gì’ đi!”
Eric ngập ngừng. Rồi nó nói thật chậm, “Đó là K-Á-I-D-Ì, chứ không phải C-Á-I-D-Ì. À em biết rồi. Nó phải là C-Á-I-D-Z-Ì.”
Đứng đằng sau Eric, mụ Trunchbull nhào tới, túm lấy tai thằng nhóc, mỗi tay một tai, dùng ngón cái và ngón trỏ ngắt chúng.
“Ối!” Eric hét lên. “Ối! Cô làm em đau!”
“Tao chưa bắt đầu đâu,” mụ Trunchbull lanh lẹ đáp. Và giờ, nắm thật chặt hai tai thằng nhóc, mụ lôi cổ nó ra khỏi chỗ ngồi và nhấc bổng nó lên cao.
Y hệt Rupert, thằng Eric gào muốn sập nhà.
Từ phía cuối lớp, Cô Honey hét lên, “Cô Trunchbull! Đừng làm thế! Bỏ cậu bé ra! Tai nó sắp rơi cả ra rồi!”
            “Chúng không rơi được đâu,” mụ Trunchbull gào trả. “Tôi khám phá từ lâu rồi Cô Honey à, là tai bọn con trai dính rất chắc vào đầu chúng.”
            “Thả cậu bé ra, Cô Trunchbull, làm ơn đi,” Cô Honey van vỉ. “Cô có thể làm hại cậu ấy, thật đấy! Cô có thể làm chúng đứt lìa ra mất!”
            “Tai không bao giờ đứt lìa ra cả!” mụ Trunchbull hét. “Chúng dài ra một cách phi thường, hệt như chúng đang thế này đây, và tôi bảo đảm với cô là chúng không bao giờ đứt lìa ra cả!”
            Eric rú lên to hơn bao giờ hết và quẫy đạp trong không khí.
            Matilda chưa bao giờ thấy một cậu bé, hay bất kỳ ai khác ở trong tình huống này, lại bị xách tai nhấc bổng lên không cả. Giống như Cô Honey, cô cảm thấy chắc chắn đôi tai sẽ đứt lìa ra khỏi sức nặng cơ thể bất cứ lúc nào.
            Mụ Trunchbull vẫn đang hét, “‘Cái gì’ đánh vần là C-Á-I-G-Ì. Giờ đánh vần lại nó đi, đồ mụn cóc nhỏ nhít.”
            Eric không chút ngập ngừng. Cậu học được từ chuyện của Rupert vài phút trước là, bạn trả lời càng nhanh thì được phóng thích càng nhanh. “C-Á-I-G-Ì,” cậu rú lên, “là cách đánh vần của từ ‘cái gì’!”
            Vẫn nắm chặt tai cậu, mụ Trunchbull hạ cậu xuống chiếc ghế ngồi đằng sau chiếc bàn học. Rồi mụ sải bước lên phía đầu lớp, chùi tay nọ vào tay kia hệt như người vừa phải làm việc gì đó bụi bặm bẩn thỉu lắm vậy.
            “Đó là cách khiến chúng phải học, Cô Honey ạ,” mụ bảo. “Cô học câu này của tôi nhé, Nói năng chả ích lợi gì đâu. Cô phải nhồi nó vào đầu chúng. Không có chuyện uốn éo vặn vẹo để khuyến khích bọn chúng nhớ thứ này thứ kia đâu. Làm như tôi thì chúng tập trung cực tốt.”
            “Cô có thể khiến chúng bị thương vĩnh viễn đấy, Cô Trunchbull ạ,” Cô Honey hét lên.
            “Ồ tôi làm thế rồi, tôi chắc tôi làm thế rồi,” mụ Trunchbull cười nhăn nhở đáp lại. “Tai thằng Eric sẽ dài ra đáng kể trong vài phút đấy! Giờ chúng dài hơn nhiều so với lúc trước. Chuyện đó chả có gì là sai cả, Cô Honey ạ. Nó sẽ khiến cậu ta có dáng vẻ yêu tinh trông thật thú vị suốt cuộc đời này.”
            “Nhưng Cô Trunchbull à…”
            “Ồ câm mồm đi Cô Honey! Cô ẩm ương hệt bất cứ đứa nào trong số nhóc tì kia. Nếu cô không đảm đương nổi công việc ở đây thì cô có thể cuốn gói ra đi và tìm việc ở một trường tư thục nhung lụa nào đó dành cho bọn con cháu nhà giàu. Khi cô dạy ở đây đủ lâu như tôi đây, thì cô sẽ nhận ra rằng, nói năng với bọn nhóc chả ích lợi gì đâu. Đọc cuốn Nicholas Nickleby đi Cô Honey, của Ông Dickens ấy. Đọc về Ông Wackford Squeers ấy, vị hiệu trưởng đáng kính của Trường Dotheboys Hall (Sảnh mần sạch đám con trai) ấy. Ông ấy biết cách trừng trị bọn súc vật nhỏ nhít này lắm, phải không nào! Ông ấy biết cách dùng roi, phải không nào! Ông ấy khiến lưng bọn chúng nóng rãy cả lên đến độ cô có thể chiên trứng và thịt muối trên ấy đấy! Một cuốn sách hay, cuốn ấy đấy. Nhưng tôi đồ rằng đám đù đờ ta có ở đây sẽ đọc nó, vì chỉ nhìn chúng thôi, đủ biết rằng chúng không bao giờ học để đọc được bất cứ thứ gì cả!”
            “Em đọc cuốn đó rồi,” Matilda lẳng lặng nói.
            Mụ Trunchbull quay phắt lại và cẩn thận nhìn cô bé nhỏ xíu có mái tóc đen và cặp mắt nâu đang ngồi ở dãy bàn thứ hai. “Mày nói gì cơ?” mụ gay gắt hỏi lại.
            “Em nói là em đọc nó rồi, thưa Cô Trunchbull.”
            “Đọc cái gì?”
            “Cuốn Nicholas Nickleby, thưa Cô Trunchbull.”
            “Mày dối tao, thưa quý nương!” mụ Trunchbull gào lên, nhìn Matilda chằm chằm. “Tao nghi ngờ về việc có bất kỳ đứa nhóc tì nào trong cả cái trường này từng đọc qua cuốn ấy, và mày đây, một con tép con chưa nở, ngồi ở lớp đội sổ, lại dám bảo tao điều dối trá trơ trẽn đến thế cơ à! Sao mày làm thế? Mày coi tao là đồ ngu à! Mày coi tao là đồ ngu hả, con nhóc kia?”
            “Ồ,” Matilda nói, rồi ngập ngừng. Cô tính nói là, “Dạ em đọc nó vui lắm ạ,” nhưng thế thì khác nào tự sát. “Ồ,” cô nói tiếp, dù vẫn ngập ngừng, không muốn nói ra từ “Không đâu.”
            Mụ Trunchbull đánh hơi thấy điều đứa bé đang nghĩ và mụ không thích nó tí nào. “Đứng lên khi nói chuyện với tao!” mụ cắn cảu. “Tên mày là gì?”
            Matilda đứng dậy và bảo, “Tên em là Matilda Wormwood, thưa Cô Trunchbull.”
            “Wormwood phải không?” mụ Trunchbull hỏi. “Trong trường hợp đó, mày hẳn là con của thằng cha sở hữu cái ga-ra Wormwood Motors nhỉ?”
            “Dạ vâng, thưa Cô Trunchbull.”
            “Hắn là thằng bịp bợm!” mụ Trunchbull hét lên. “Tuần trước hắn bán cho tao con xe cũ mà hẳn bảo là gần như mới nguyên. Khi đó tao nghĩ hắn là một tay rất tuyệt. Nhưng sáng nay, khi tao lái xe qua làng, thì cái xe tắt ngủm ngay trên đường! Mình nó chứa đầy mùn cưa! Thằng cha đó là tên ăn trộm, quân kẻ cướp! Tao sẽ lột da hắn làm xúc xích, mày cứ đợi đó mà xem!”
            “Ông ấy khôn khéo trong làm ăn lắm ạ!” Matilda đáp.
            “Khôn khéo cái con khỉ!” mụ Trunchbull gào lên. “Cô Honey bảo tôi là cũng khôn khéo lắm! Ờ vậy thì thưa quý nương, tôi đây không thích người khôn khéo! Bọn chúng đều là phường bịp bợm cả! là kẻ bịp bợm nhất! Trước khi cãi nhau với cha cô, tôi có được nghe vài chuyện kinh tởm về cách cô hành xử ở nhà! Nhưng tốt hơn hết là cô đừng thử bất cứ thứ gì ở trường này, quý cô trẻ tuổi ạ. Từ giờ trở đi tôi sẽ trông chừng cô cẩn thận. Ngồi xuống và giữ trật tự nào.”
           


[1] Tên nữ thần tóc rắn trong thần thoại Hy Lạp.
[2] Trong tiếng Anh, write (viết) và right (đúng) là 2 từ đồng âm.
[3] Trong tiếng Anh, Mrs/Misses (Bà) dùng để chỉ phụ nữ đã kết hôn, Miss (Cô) để chỉ phụ nữ còn độc thân hay nữ giáo viên. Riêng Miss Trunchbull được dịch là Bà Trunch nhằm hàm ý chỉ sự lớn tuổi so với Miss Honey.
[4] Ink là mực viết.

No comments:

Post a Comment