PHÉP LẠ THỨ HAI
Matilda không cùng đám bạn ùa ra khỏi
lớp. Sau khi những đứa trẻ khác biến mất tiêu, cô vẫn ngồi tại bàn, yên lặng và trầm
tư. Cô biết mình phải nói với ai đó về vụ ly nước đổ. Cô chắc không tài nào giữ
được bí mật to lớn ấy mãi trong lòng. Cái cô cần chỉ là ai đó, một người lớn
khôn ngoan, biết cảm thông, người có thể giúp cô hiểu được ý nghĩa của sự việc
khác thường đó là gì.
Bố hay mẹ cô đều chẳng giúp gì được.
Nếu họ tin chuyện của cô, mà thật khó có chuyện đó, thì họ chắc cũng chẳng nhận
thức được rằng, việc vừa xảy ra trong lớp học chiều nay là một sự kiện đáng
kinh ngạc tới mức nào. Trong giờ phút bí bách ấy, Matilda quyết định rằng người
mà cô thổ lộ chuyện này sẽ là Cô Honey.
Matilda và Cô Honey là hai người duy
nhất còn nán lại trong lớp. Cô Honey đang ngồi sau bàn mình, lật lật mớ giấy tờ.
Cô nhìn lên và hỏi, “Ồ, Matilda, em không ra ngoài chơi với các bạn khác sao?”
Matilda đáp, “Em có thể nói chuyện với
cô một chút được không ạ?”
“Dĩ nhiên là được. Em gặp rắc rối gì
à?”
“Điều gì đó lạ lắm đã xảy đến với
em, thưa Cô Honey.”
Cô Honey lập tức cảnh giác. Từ sau
hai buổi gặp thảm họa bàn về Matilda mà cô có gần đây, đầu tiên là với bà Hiệu
trưởng, thứ đến là với ông bà Wormwood đáng sợ, Cô Honey không ngừng nghĩ rất
nhiều đến đứa trẻ này và tự hỏi bằng cách nào mình có thể giúp đỡ nó. Và giờ,
Matilda ngồi đây, ngay trong lớp học này với vẻ mặt vô cùng trông đợi và hỏi
xem, liệu cô bé có thể nói chuyện riêng với cô hay không. Trước nay chưa lần
nào Cô Honey thấy cô bé kỳ cục và hốt hoảng đến thế.
“Ừ, Matilda,” cô bảo. “Kể cho cô
nghe xem điều gì kỳ lạ xảy ra với em nào.”
“Cô Trunchbull sẽ không đuổi học em
chứ?” Matilda hỏi. “Vì em có bỏ con vật kia vào bình nước của cô ấy đâu. Em cam
đoan với cô là không phải em.”
“Cô biết là không phải em mà,” Cô
Honey đáp.
“Vậy em có bị đuổi học không?”
“Cô nghĩ là không,” Cô Honey đáp.
“Cô Hiệu trưởng chỉ hơi mất bình tĩnh, có thế thôi.”
“Tốt,” Matilda đáp. “Nhưng đó không
phải là điều em muốn nói với cô.”
“Vậy em muốn nói với cô điều gì, hở
Matilda?”
“Em muốn nói với cô về vụ ly nước với
con vật ở trong đó,” Matilda nói. “Cô thấy nó đổ lên người Cô Trunchbull, đúng
không?”
“Cô có thấy việc đó.”
“Vâng, thưa Cô Honey, em không đụng
đến nó. Em không lại gần nó.”
“Cô biết em không làm việc đó,” Cô
Honey đáp. “Em đã nghe cô bảo với cô Hiệu trưởng rằng đó không thể là em mà.”
“Chà nhưng đó lại là em đấy, thưa Cô Honey,” Matilda đáp.
“Đó chính xác là điều em muốn nói với cô.”
Cô Honey dừng lại, chăm chú nhìn đứa
trẻ. “Cô không nghĩ là mình theo kịp lời em nói,” cô nói.
“Em giận quá vì bị buộc tội về việc mình
không làm, nên em gây ra nó đấy ạ.”
“Em gây ra cái gì, hở Matilda?”
“Em làm đổ cái ly đấy ạ.”
“Cô vẫn không hiểu ý em là gì,” Cô
Honey nhẹ nhàng bảo.
“Em dùng mắt làm việc đó,” Matilda
đáp. “Em nhìn chằm chằm vào nó, cầu mong nó đổ, và rồi mắt em nóng bừng cả lên,
kỳ cục lắm ạ, kiểu như có một lực phóng ra từ đó và rồi cái ly đổ ụp xuống.”
Cô Honey tiếp tục điềm tĩnh nhìn
Matilda, qua đôi kính gọng thép của mình, và Matilda cũng điềm tĩnh nhìn lại
cô.
“Cô không theo kịp em,” Cô Honey bảo.
“Có phải ý em là, em thực sự đánh đổ cái ly?”
“Vâng, và làm bằng mắt ạ,” Matilda
đáp lại.
Cô Honey lặng đi trong giây lát. Cô
không nghĩ Matilda nói dối. Có thể là cô bé cho phép trí tưởng tượng của mình
bay bổng quá đi thôi. “Ý em là em ngồi ở đấy, rồi bảo cái ly đổ và nó đổ ụp xuống
à?”
“Kiểu là thế, là thế đấy, thưa Cô
Honey.”
“Nếu em làm thế, thì đó có lẽ là
phép lạ kỳ vĩ nhất mà một người thực hiện được từ thời Chúa Jesus tới giờ.”
“Em đã làm việc đó, Cô Honey ạ.”
Thật khác thường, Cô Honey nghĩ, khi
có chục đứa trẻ với cùng một ý nghĩ vớ vẩn như thế quanh đây. Cô quyết định dừng
chuyện này lại, càng nhẹ nhàng càng tốt. “Em có thể làm lại điều đó không?” cô
hỏi, không hề có hàm ý xấu xa.
“Em không biết nữa,” Matilda đáp,
“nhưng em nghĩ em có thể làm lại ạ.”
Cô Honey di chuyển cái ly trống rỗng
ra phía giữa bàn. “Cô cho nước vào nhé?” cô hỏi, hơi mỉm cười.
“Em nghĩ chuyện đó không thành vấn đề
ạ,” Matilda đáp.
“Rồi tốt rồi. Bắt đầu và làm đổ nó
đi.”
“Việc này mất một chút thời gian đấy
ạ.”
“Mất bao lâu cũng được,” Cô Honey bảo.
“Cô không vội đâu.”
Matilda, ngồi ở bàn thứ hai, cách Cô
Honey chừng 10 foot, bèn chống cùi chỏ lên bàn, tay ôm lấy mặt, và lần này cô
ra lệnh ngay từ đầu. “Đổ đi, đổ cái ly đi!”
cô ra lệnh, nhưng môi không động đậy và miệng không phát ra âm thanh nào. Cô chỉ
hét những từ ngữ đó trong đầu mình. Và giờ cô tập trung toàn bộ tâm trí, trí lực,
ý chí của mình vào đôi mắt và một lần nữa, song lần này nhanh hơn lần trước, cô
cảm thấy dòng điện đương tập hợp lại, sức mạnh bắt đầu dâng tràn, nhãn cầu nóng
bừng cả lên, hàng triệu cánh tay, bàn tay vô hình nhỏ tí trên đó bèn chìa ra về
phía cái ly, và vẫn không nói tiếng nào, cô tiếp tục hét lên trong đầu, ra lệnh
cho cái ly đổ xuống. Cô thấy nó lảo đảo, nghiêng ngả, rồi đổ kềnh ra, tạo nên
tiếng lanh canh trên mặt bàn, cách đôi tay đang xếp lại của Cô Honey khoảng 12
inch.
Cô Honey há hốc mồm, mắt mở to đến độ
bạn có thể thấy toàn bộ lòng trắng. Cô nói không nên lời. Cô không thể. Cô sốc
khi nhìn thấy phép lạ được thực hiện, và nó khiến cô câm lặng. Cô tròn mắt nhìn
cái ly, ngả người tránh nó như tránh một vật nguy hiểm vậy. Rồi chầm chậm, cô
ngẩng đầu lên, nhìn Matilda. Cô thấy mặt đứa trẻ trắng toát, trắng như tờ giấy,
toàn thân run rẩy, mắt trợn trừng, chằm chằm nhìn về phía trước và vào hư
không. Toàn bộ gương mặt biến đổi, đôi mắt tròn xoe, sáng ngời, và cô bé ngồi
đó, im lặng, nhưng đẹp lạ lùng trong sự tĩnh lặng ấy.
Cô Honey chờ đợi, hơi run khi nhìn đứa
trẻ lúc nó từ từ lắc lư mình để tỉnh lại. Rồi thình lình, tách một cái, gương mặt cô bé chuyển sang vẻ trầm mặc thần thánh.
“Em ổn,” cô nói, miệng mỉm cười. “Em rất ổn, Cô Honey à, nên cô đừng lo lắng gì
cả.”
“Em nhìn có vẻ xa xăm lắm,” Cô Honey
thì thào bảo, vẻ khiếp sợ.
“Ồ, em đã thế. Em đã bay qua những
vì sao trên đôi cánh bạc,” Matilda đáp. “Nó tuyệt lắm.”
Cô Honey vẫn chăm chú nhìn đứa trẻ với
vẻ thắc mắc cực độ, như thể nó là Đấng sáng tạo, Khởi nguồn của thế giới, Buổi
bình minh của lịch sử vậy.
“Lần này nó diễn ra nhanh hơn lần
trước,” Matilda lặng lẽ nói.
“Không thể nào!” Cô Honey hổn hển nói.
“Cô không tin! Cô không tin được!” Cô nhắm mắt lại, giữ nguyên như thế một lúc,
rồi mở mắt ra như thể đang thu gom hồn vía của mình lại vậy. “Em có muốn tới
nhà cô làm một chén trà hay không?” cô hỏi.
“Ôi em thích lắm ạ,” Matilda đáp.
“Tốt. Vậy sắp xếp đồ đạc của em lại
và cô trò mình sẽ gặp nhau bên ngoài trong vài phút nữa.”
“Cô không kể chuyện này cho bất kỳ
ai đấy chứ? Chuyện em vừa làm ấy, hở Cô Honey?”
“Cô không nghĩ mình sẽ làm thế đâu,”
Cô Honey đáp.
TÚP LỀU CỦA CÔ HONEY
Cô Honey cùng Matilda rời trường, và
cả hai bách bộ trong im lặng qua khu High Street của làng. Họ đi qua ông hàng
rau với cửa hàng đầy ắp táo, cam, ông hàng thịt với những vuông thịt còn đỏ tiết
bày trên quầy hàng, những con gà trần trui lủi treo lủng lẳng, một nhà băng nhỏ,
một tiệm rau quả, một cửa hàng đồ điện, rồi họ đi về phía đầu kia của ngôi làng,
trên con đường quê nhỏ hẹp nơi không có người và có rất ít xe cộ qua lại.
Và giờ khi họ đi một mình, Matilda đột
nhiên cảm thấy hào hứng vô cùng. Như thể có cái van được mở toang trong người
cô và một luồng năng lượng lớn được xả ra ngoài. Cô lon ton đi cạnh Cô Honey, chân
tung tăng nhảy nhót còn ngón tay xòe ra, như muốn bay theo gió tứ phương, và cô
nói như bắp nổ, liến thoắng không ngừng. Nào là Cô Honey thế này, Cô Honey thế
kia, và Cô Honey ơi, em thật sự cảm thấy mình có thể di chuyển bất cứ thứ gì
trên đời, chứ không chỉ làm đổ ly và những vật nho nhỏ như thế đâu, đại loại
là, “Em cảm thấy mình có thể lật đổ cả bàn ghế, Cô Honey ạ. Thậm chí người ngồi
trên ghế, em nghĩ mình có thể đẩy ngã họ luôn, cả những vật lớn hơn cũng thế, vật
to hơn bàn ghế ấy. Em chỉ mất một lúc để làm mắt mình mạnh lên, rồi đẩy đổ nó, dùng
sức mạnh này, với bất cứ thứ gì, miễn là em nhìn nó đủ dữ. Em phải nhìn nó thật
dữ, Cô Honey ạ, thật là dữ dội ấy, rồi em cảm thấy việc đó xảy ra với mắt mình,
chúng nóng lên như thể đang cháy vậy, nhưng em chẳng quan tâm chút nào tới chuyện
đó, mà Cô Honey ơi…”
“Bình tĩnh, bình tĩnh chút nào, bé
con,” Cô Honey bảo. “Ta đừng đốt cháy giai đoạn chứ.”
“Nhưng cô nghĩ nó thú vị, phải không cô?”
“Ừ, nó rất thú vị. Còn hơn cả thú vị
ấy chứ,” Cô Honey đáp, “Nhưng từ giờ trở đi ta phải xem xét cẩn thận, Matilda ạ.”
“Sao phải xem xét cẩn thận hở Cô
Honey?”
“Vì ta đang chơi đùa với những xung lực
huyền bí, bé con của cô ạ, mà ta không biết gì về chúng cả. Cô không nghĩ chúng
là thứ gì đó ma quỷ. Chúng có thể tốt lành. Thậm chí còn mang tính thần thánh.
Nhưng dù chúng có là gì đi chăng nữa, thì ta vẫn phải xử lý chúng thật cẩn thận.”
Đó là lời lẽ khôn ngoan phát ra từ
miệng một lão làng, nhưng Matilda đang hứng chí, nên không nhìn theo cách ấy.
“Em chả hiểu tại sao chúng ta phải cẩn thận đến thế cả?” cô bé nói, tiếp tục nhảy
chân sáo.
“Cô đang cố giải thích cho em,” Cô
Honey kiên nhẫn bảo, “rằng chúng ta đang đề cập tới thứ không ai biết. Thứ
không giải thích được. Từ đúng để chỉ nó phải là hiện tượng. Đó là một hiện tượng.”
“Em có phải là một hiện tượng
không?” Matilda hỏi.
“Em hoàn toàn có thể xem là thế,” Cô
Honey đáp. “Nhưng tốt hơn vào lúc này, cô khuyên em đừng nghĩ mình là bất cứ thứ
gì cụ thể cả. Cô nghĩ việc ta có thể làm là khám phá hiện tượng này từng chút một,
chỉ hai ta với nhau, nhưng phải chắc là ta xem xét mọi thứ lúc nào cũng thật cẩn
thận.”
“Cô có muốn em làm thêm chút gì đó
không?”
“Cô thèm được nói thế làm,” Cô Honey
thận trọng bảo.
“Tốt, tốt lắm,” Matilda đáp.
“Chính cô,” Cô Honey nói tiếp, “còn
thấy bối rối trước chuyện em làm nhiều hơn cả em nữa đấy, và cô đang cố tìm ra
một lời giải thích hợp lý.”
“Chẳng hạn như?” Matilda hỏi.
“Như là, liệu nó có liên quan tới việc
em phát triển sớm quá hay không.”
“Chính xác thì từ đó có nghĩa là gì ạ?”
Matilda hỏi.
“Trẻ phát triển sớm,” Cô Honey đáp,
“là trẻ sớm tỏ rõ trí thông minh đáng kinh ngạc từ lúc nhỏ. Em là một đứa trẻ
phát triển sớm đến không thể tin được.”
“Em thật sự là thế à?” Matilda lại hỏi.
“Dĩ nhiên em là thế. Em phải ý thức
được điều đó. Nhìn cách em đọc mà xem. Cách em làm toán nữa.”
“Em cho là cô đúng,” Matilda đáp lại.
Cô Honey lấy làm lạ trước sự không tự
ý thức được điều đó và không tỏ ra tự phụ của đứa trẻ.
“Cô không ngừng thắc mắc là,” cô nói
thêm, “liệu khả năng bất ngờ đến với em này, khả năng dịch chuyển một sự vật mà
không chạm vào nó ấy, liệu có liên quan gì tới sức mạnh trí não của em hay
không.”
“Ý cô là trong đầu em không có chỗ
cho tất cả đám não niếc ấy, nên thứ gì đó phải tuồn ra ngoài à?”
“Đó không hẳn là ý của cô,” Cô Honey
nói, miệng mỉm cười. “Nhưng dù việc gì có xảy ra, thì cô xin nói lại điều này,
từ giờ trở đi ta phải xem xét cẩn thận. Cô không quên vẻ xa vắng, lạ lùng trên
mặt em sau khi em hất đổ cái ly mới rồi đâu.”
“Cô có nghĩ là làm thế thật sự khiến
em bị đau hay không? Đó có phải là điều cô đang nghĩ tới?”
“Nó khiến em thấy kỳ cục lắm, phải
không?”
“Nó khiến em thấy hay hay,” Matilda
nói. “Trong chốc lát em được bay ngang qua các vì sao trên đôi cánh bạc. Em kể
cho cô nghe rồi đó. À em kể cô nghe điều khác nữa, được không? Đó là lần sau em
làm dễ hơn lần trước, dễ hơn nhiều, rất nhiều luôn. Em nghĩ nó giống như bất cứ
việc gì khác, cô càng làm, thì nó càng dễ.”
Cô Honey đang đi chầm chậm, để đứa
trẻ nhỏ tí có thể bắt kịp mà không phải chạy quá nhanh, và giờ quang cảnh trông
thật thanh bình, trên con đường nhỏ hẹp khi ngôi làng dần lui lại phía sau lưng
họ. Đó là một trong số những buổi chiều mùa thu vàng óng ả, và có nào cây mâm
xôi, cây ông lão nở hoa đầy hai bên bờ giậu, cây táo gai quả chín đỏ dành cho bọn
chim khi mùa đông tới. Đây đó hai bên đường có nhiều cây cao, nào sồi, ngô đồng,
thi thoảng có cả dẻ thơm. Cô Honey, đang mong chuyển đề tài trong chốc lát, bèn
nói tên các loại cây cho Matilda biết và dạy cô bé cách nhận ra chúng thông qua
hình dạng lá và kiểu vỏ cây. Matilda tiếp nhận tất cả và ghi nhớ cẩn thận kiến
thức đó vào đầu.
Cuối cùng họ đi tới khoảng trống bên
trong bờ giậu, nằm phía bên trái con đường, nơi có một cánh cổng rào loại có
năm thanh gỗ nằm ngang. “Lối này,” Cô Honey bảo, tay mở cổng, dẫn Matilda qua,
rồi đóng nó lại. Giờ họ đi dọc một con đường mòn nhỏ hẹp, không khác gì lối đi
dành cho xe bò, và có nhiều vết bùn lún. Mỗi bên đều có một bờ giậu cao đầy cây
phỉ, và bạn có thể thấy từng chùm quả nâu chín vàng ẩn sau lớp áo màu xanh lục.
Bọn sóc chả mấy chốc sẽ kéo tới nhặt, Cô Honey bảo, và cẩn thận cất trữ để dành
cho những tháng ngày lạnh lẽo sắp tới.
“Ý cô là cô sống ở đây hả?” Matilda hỏi.
“Đúng đấy,” Cô Honey trả lời, rồi
không nói thêm gì nữa.
Matilda chưa một lần nghĩ tới nơi Cô
Honey sinh sống. Cô cứ đơn giản cho rằng là giáo viên, thì người ta phải xuất
hiện từ nơi nào đó, tới trường dạy học rồi ra về. Có ai trong đám trẻ chúng ta,
cô tự hỏi, từng thắc mắc là các giáo viên đi đâu sau giờ dạy ở trường không nhỉ?
Chúng ta có thắc mắc là liệu họ sống một mình, hay sống cùng mẹ, em gái hay một
ông chồng không nhỉ? “Cô sống một mình hả Cô Honey?” cô bé hỏi.
“Ừ, đúng là thế.” Cô Honey đáp.
Họ đang đi trên con đường có những
đoạn lầy lội, đầy bùn đất đã được mặt trời hong khô, và bạn phải nhìn để biết
đường đi, nếu không muốn bị ngã trẹo chân. Có vài chú chim nhỏ lượn quanh các
cành phỉ, nhưng tất cả chỉ có thế.
“Đây chỉ là túp lều dành cho người
làm công ở nông trại,” Cô Honey bảo. “Em không nên mong đợi gì nhiều. Chúng ta
gần tới nơi rồi.”
Họ đi đến một cánh cửa nhỏ màu xanh,
nửa giấu trong bờ giậu về phía bên tay phải và gần như bị những cành phỉ phía
trên che khuất. Cô Honey dừng lại, tay để lên cánh cửa và bảo, “Đây rồi. Đây là
nơi cô sống.”
Matilda thấy một lối đi bẩn thỉu, nhỏ
hẹp dẫn tới một túp lều xây bằng gạch đỏ, bé tin hin. Túp lều nhỏ tới nỗi trông
giống nhà búp bê hơn là chỗ dành cho người thật ở. Gạch dùng để xây nó vừa cũ,
vừa bở, và có màu đỏ nhàn nhạt. Nó có một mái ngói màu xám, một ống khói nho nhỏ,
hai cửa sổ bé tí ti ở mặt trước. Mỗi cửa sổ lại không lớn hơn một mặt báo khổ
nhỏ là mấy, và rõ ràng chả có lầu liếc gì để mà leo lên. Hai bên lối đi mọc đầy
những bụi tầm ma, gai mâm xôi và cỏ nâu dài. Một cây sồi to tỏa bóng mát xuống
căn nhà. Những cành nhánh vươn dài, rậm rạp của nó dường như bao bọc, ôm lấy
căn nhà nhỏ xíu, đồng thời cũng che giấu nó khỏi thế giới còn lại bên ngoài.
Cô Honey, một tay để trên cánh cửa
mà chưa mở nó ra, quay lại phía Matilda và bảo, “Một thi sĩ tên Dylan Thomas từng
viết mấy câu thơ mà cô cứ nghĩ đến mỗi lần rảo bước trên lối đi này.”
Matilda chờ đợi, và Cô Honey, với một
chất giọng khá hay và chậm rãi, bắt đầu đọc bài thơ đó lên:
“Có cô bé chân rảo bước khắp nơi
Trên vùng đất của những câu chuyện kể
Vùng đất bị bùa mê, còn đương mải ngủ
nghê,
Nên chả tin hay sợ chuyện sói già,
Giả cừu non bằng bộ vó trắng tinh,
Ẩn mình dưới tán cây và chờ mong đón
đợi,
Rồi vọt ra vồ lấy cô ăn thịt,
Móc máy tim gan trong ngôi nhà gỗ hồng đào.”
Có chút tĩnh lặng, và Matilda, người chưa từng được ai đọc cho nghe tí
thơ ca lãng mạn hay ho nào, liền cảm thấy vô cùng cảm động. “Nó nghe như nhạc vậy,”
cô bé thì thào bảo.
“Nó là nhạc mà,” Cô Honey đáp. Và rồi, như thể xấu hổ vì đã lộ ra một
phần bí mật của bản thân, cô vội vàng mở cửa và bước dọc theo lối vào. Matilda
chùn lại. Giờ cô hơi sợ nơi này. Nó trông có vẻ gì đó rất không thật, xa xăm, kỳ
dị, và hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài. Nó giống như tranh minh họa trong
truyện cổ Grimm hay truyện cổ Andersen vậy. Đó là căn nhà nơi người tiều phu
nghèo sống cùng Hansel và Gretel, nơi bà của Cô bé quàng khăn đỏ sống, cũng là
nơi mà Bảy chú lùn và Ba chú gấu cùng tất cả các nhân vật khác ở. Nó như từ
trong truyện thần tiên bay thẳng ra ngoài đời thực vậy.
“Đến đây nào, bé yêu,” Cô Honey quay lại gọi, và Matilda theo chân cô
bước vào.
Cửa trước được phủ một lớp sơn màu xanh đã bong tróc, và không có ổ
khóa. Cô Honey chỉ cần nhấc then cài, đẩy cửa ra và bước vào nhà. Dù không cao,
nhưng cô vẫn phải cúi thấp người khi bước qua. Matilda bước vào theo và thấy
mình như đang ở trong một đường hầm chật hẹp tăm tối.
“Em có thể đi thẳng ra bếp và giúp cô chuẩn bị trà nước,” Cô Honey bảo,
rồi cô dẫn lối dọc theo đường hầm nọ đến căn bếp, nếu bạn thích gọi nó là thế.
Nó không lớn hơn cái tủ quần áo cỡ nhỡ là bao, và có một cửa sổ be bé trên bức
tường phía sau, cùng một bồn rửa ở phía dưới cửa sổ nhưng chả có vòi nước nào.
Trên bức tường khác có một cái kệ, chắc là nơi để chuẩn bị đồ ăn thức uống, và
có một cái tủ lẻ loi nằm ngay phía trên cái kệ đó. Trên kệ có cái bếp dầu, một
cái xoong và nửa chai sữa. Bếp dầu là loại bếp nhỏ dùng để đi cắm trại, mà bạn
đổ dầu vào, thắp ở trên, rồi nhấn van bơm ở dưới để tạo áp suất cho lửa phụt
lên.
“Em có thể đi lấy cho cô ít nước, trong khi cô thắp bếp,” Cô Honey bảo.
“Cái giếng ở sau nhà. Lấy xô đi. Nó nằm kia. Em sẽ thấy sợi dây chỗ cái giếng.
Chỉ cần móc xô vào đầu dây và hạ nó xuống, nhưng đừng ngã theo đấy.” Matilda,
giờ kinh ngạc hơn bao giờ hết, liền lấy cái xô và xách nó ra sau vườn. Giếng có
một cái mái che bằng gỗ nho nhỏ, một dụng cụ quay tay đơn giản, và một sợi dây
giòng xuống một cái lỗ sâu hun hút tối mò mò. Matilda kéo sợi dây lên và móc quai
xô vào đấy. Rồi cô hạ cái xô xuống cho tới khi nghe tiếng nước bắn tung tóe, và
sợi dây chùng xuống. Cô kéo xô lên, và lạ chưa kìa, trong xô có nước.
“Vậy đủ không cô?” cô bé hỏi, khi xách nước vào nhà.
“Gần đủ rồi đấy,” Cô Honey bảo. “Cô đồ rằng em chưa từng làm việc này
trước đây, đúng không?”
“Chưa ạ,” Matilda đáp. “Nó vui lắm. Vậy cô làm thế nào để có đủ nước
dùng khi tắm bồn?”
“Cô không tắm bồn,” Cô Honey đáp.
“Cô tắm đứng. Cô lấy một xô nước đầy, dùng cái bếp nhỏ này đun nước lên, rồi cởi
bỏ quần áo, rửa ráy mình mẩy.”
“Có thật cô làm thế không?” Matilda
hỏi.
“Thật chứ,” Cô Honey đáp. “Mọi người
nghèo ở Anh đều tắm rửa theo cách ấy cách đây không lâu. Mà họ còn chẳng có bếp dầu. Họ phải đun nước
trong lò sưởi.”
“Vậy cô nghèo, phải không Cô Honey?”
“Ừ, rất nghèo em ạ.” Cô Honey đáp lại.
“Cái bếp nhỏ này tốt thật đấy, đúng không?” Cái bếp dầu đang réo ầm lên với ngọn
lửa xanh tỏa ra phừng phừng và nước trong nồi bắt đầu sủi bọt. Cô Honey lấy
bình trà từ tủ tường ra và cho ít lá trà vào trong đó. Cô cũng tìm thấy nửa ổ
bánh mì nhỏ màu nâu. Cô cắt nó làm đôi và rồi, cô lấy ít bơ cứng từ trong một
chiếc hộp nhựa ra và quết nó lên miếng bánh.
Bơ cứng ư, Matilda nghĩ. Cô ấy nghèo
thật đấy.
Cô Honey tìm một cái khay, rồi đặt
lên ấy hai cái cốc, bình trà, nửa chai sữa và một cái đĩa với hai miếng bánh
mì. “Cô e là mình không có đường,” cô bảo. “Cô không dùng đường bao giờ.”
“Thế cũng được mà,” Matilda bảo. Bằng
sự thông thái của mình, cô bé hiểu được tình huống tinh tế này và cô cực kỳ chú
ý để không nói ra bất cứ điều gì khiến người bạn đồng hành của mình cảm thấy xấu
hổ.
“Nào ta vào phòng khách chén nào,”
Cô Honey bảo, bưng cái khay lên rồi dẫn đường ra khỏi căn bếp, đi xuống đường hầm
nhỏ bé tối tăm dẫn tới căn phòng phía trước nhà. Matilda đi theo cô, nhưng ngay
khi vừa bước vào căn phòng được gọi là phòng khách ấy, cô dừng lại, đảo mắt
kinh ngạc nhìn quanh. Căn phòng vừa nhỏ vừa trống hệt như xà lim. Ánh sáng nhợt
nhạt chiếu vào qua khung cửa sổ nhỏ tin hin duy nhất nằm trên bức tường phía
trước mặt, mà cửa cũng chả có rèm. Vật dụng duy nhất trong phòng là hai cái
thùng gỗ được úp ngược xuống để làm ghế,
và cái thùng thứ ba được đặt ở giữa để làm bàn. Vậy thôi. Trên tường không có
tranh ảnh, nền nhà không có thảm trải, chỉ là những thanh gỗ sần sùi không sơn
phết, giữa các thanh lại còn có các khe hở cáu đầy bụi bẩn. Trần nhà thì thấp đến
độ, chỉ nhảy một cái là Matilda có thể chạm tay tới. Tường màu trắng nhưng
không phải màu sơn. Matilda cọ tay vào đó và một thứ bột trăng trắng bong ra,
dính vào tay cô. Đó là vôi, loại rẻ tiền thường dùng để quét chuồng bò, chuồng
ngựa, chuồng gà.
Maltida phát hoảng. Đây có thật là
nơi cô giáo ăn mặc giản dị, gọn gàng của mình sống hay không? Đây là tất cả những
gì cô ấy có để trở về sau một ngày làm việc ư? Thật không thể tin được. Mà
nguyên do là gì vậy? Chắc có chuyện gì đó lạ lùng lắm ở đây.
Cô Honey đặt cái khay lên một trong
số những chiếc thùng gỗ úp ngược. “Ngồi nào, bé yêu, ngồi xuống nào,” cô bảo,
“rồi chúng ta sẽ dùng trà nóng. Tự lấy bánh ăn đi nhé. Cả hai miếng đều cho em
đấy. Cô không ăn gì khi về nhà. Cô có bữa trưa đầy ú ụ ở trường rồi, và nó giúp
cô no bụng tới tận sáng hôm sau.”
Matilda cẩn thận ngồi ngất ngưởng
trên cái thùng úp ngược và chủ yếu để tỏ ra lịch sự, cô lấy một miếng bánh phết
bơ rồi bắt đầu ăn. Nếu ở nhà giờ này thì cô dùng bánh mì nướng phết bơ mềm, với
mứt dâu, và có thể kết thúc bằng một cái bánh xốp. Tuy thế việc này dù sao cũng
rất hay. Có bí ẩn nào đó quanh ngôi nhà này, một bí ẩn to lớn, không còn nghi
ngờ gì nữa, và Matilda mong khám phá ra nó là gì.
Cô Honey rót trà và thêm chút sữa
vào hai cái cốc. Cô chả tỏ vẻ khó chịu gì khi ngồi lên chiếc thùng úp ngược
trong căn phòng trống trải, uống trà trong chiếc cốc được đặt thăng bằng trên đầu
gối.
“Em biết không,” cô nói, “cô vẫn
nghĩ rất lung về việc em làm với cái ly ấy. Đó là sức mạnh to lớn mà em được
ban tặng, bé con của cô ạ, em biết điều đó mà.”
“Vâng, thưa Cô Honey, em biết,”
Matilda đáp, vừa nhai bánh mì phết bơ.
“Trong chừng mực cô biết,” Cô Honey
nói tiếp, “thì chưa ai trong lịch sử thế giới có thể ép một vật di chuyển mà
không động tới, thổi vào nó, hay sử dụng bất cứ sự trợ giúp nào khác cả.”
Matilda gật đầu, không nói gì.
“Điều hấp dẫn là,” Cô Honey nói tiếp,
“là tìm ra giới hạn thực sự của sức mạnh đó ở em. Ồ, cô biết em nghĩ mình có thể
di chuyển mọi thứ hiện hữu, nhưng cô nghi ngờ về chuyện đó lắm.”
“Em thích thử với thứ gì đó thật lớn,”
Matilda bảo.
“Thế còn khoảng cách thì sao?” Cô
Honey hỏi. “Em có luôn phải ở gần vật mà em muốn đẩy đổ hay không?”
“Em chẳng biết nữa,” Matilda đáp.
“Nhưng sẽ rất hay nếu tìm hiểu chuyện đó.”
No comments:
Post a Comment