PHÉP LẠ THỨ BA
Hôm sau là thứ Năm, và đó là
ngày, như cả lớp Cô Honey đều biết, bà Hiệu trưởng dạy tiết đầu ngay sau giờ ăn
trưa.
Trong buổi học ban sáng Cô Honey bảo
cả lớp, “Một vài em đặc biệt không thích thú gì giờ Cô Hiệu trưởng dạy hồi tuần
rồi, nên hôm nay tất cả chúng ta hãy cố tỏ ra thật thận trọng và khôn ngoan
nhé. Eric, tai em, sau lần chạm trán với Cô Trunchbull, sao rồi?”
“Cô ấy kéo dài chúng ra rồi ạ,” Eric
đáp. “Mẹ em bảo chúng rõ ràng lớn hơn trước.”
“Còn Rupert,” Cô Honey bảo, “cô mừng
khi thấy em không rụng hết tóc hôm thứ Năm tuần rồi đấy.”
“Đầu em sau đó cứ tưng tức thế nào ấy
ạ,” Rupert đáp.
“Còn em, Nigel,” Cô Honey bảo, “hôm
nay đừng tỏ ra tinh vi với Cô Hiệu trưởng nữa nhé. Em tuần rồi rất xấc với cô ấy
đấy.”
“Em ghét bà ta,” Nigel đáp.
“Cố đừng để lộ ra mặt đấy,” Cô Honey
bảo. “Nó chẳng đem lại lợi lộc gì đâu. Cô ấy là một phụ nữ mạnh mẽ. Cô ấy có cơ
bắp cứng như thép ấy.”
“Em ước gì mình lớn hơn,” Nigel đáp.
“Em sẽ tẩn bà ta một trận.”
“Cô nghi ngờ chuyện đó lắm,” Cô
Honey bảo. “Chưa ai vượt được bà ta đâu.”
“Chiều nay cô ấy kiểm tra gì bọn em
vậy?” một cô bé hỏi.
“Dĩ nhiên là bảng nhân ba rồi,” Cô
Honey đáp. “Đó là thứ các em dự kiến học tuần qua. Hãy bảo đảm là các em thuộc cả
rồi đấy nhé.”
Bữa trưa đến rồi đi.
Sau bữa trưa, lớp họp lại. Cô Honey
đứng ở một góc phòng. Mọi người ai cũng ngồi yên, lo sợ chờ đợi. Và rồi, hệt một
tên khổng lồ gớm ghiếc, mụ Trunchbull to lớn sải bước vào phòng, trong chiếc áo
bông và chiếc quần túm màu xanh. Mụ tiến thẳng tới cái bình nước, nhấc nó lên
và nhìn vào trong.
“Tao mừng là lần này chả có con vật
nhớt nhợt nào trong nước uống của mình.” Mụ nói. “Nếu có, thì thứ gì đó cực kỳ
khó chịu sẽ xảy đến với từng thành viên lớp học này. Kể cả cô đấy, Cô Honey ạ.”
Cả lớp vẫn im lặng và rất căng thẳng.
Giờ đám học trò đã học được đôi điều về con cọp cái này và không ai dám vồ lấy
cơ hội thách thức nó nữa.
“Rất tốt,” mụ Trunchbull gầm lên.
“Giờ hãy xem bọn bay học bảng nhân ba tốt đến thế nào. Hay nói cách khác, hãy
xem Cô Honey đã dạy bọn bay tệ đến thế nào nào,” mụ Trunchbull đang đứng trước
lớp, chân dạng háng, tay chống hông, quắc mắt nhìn Cô Honey, người đứng yên ở
góc phòng.
Matilda, ngồi bất động tại bàn mình ở
dãy thứ hai, đang quan sát mọi việc thật cẩn thận.
“Mày!” mụ Trunchbull gào lên, chỉ
ngón tay to bằng cái cây cán bột vào một thằng nhóc tên Wilfred. Wilfred ngồi
tuốt bên phải dãy bàn đầu. “Mày đấy, đứng lên!” mụ hét vào mặt nó.
Wilfred đứng lên.
“Đọc ngược bảng nhân ba!” mụ
Trunchbull sủa.
“Ngược ư?” Wilfred lắp bắp hỏi.
“Nhưng em không học ngược nó.”
“Vậy đó!” mụ Trunchbull reo lên, giọng
đắc thắng. “Cô chả dạy gì bọn chúng cả! Cô Honey, sao cô không dạy gì bọn chúng
suốt tuần qua hả?”
“Không đúng, thưa bà Hiệu trưởng,”
Cô Honey đáp. “Các em ấy học bảng nhân ba rồi. Nhưng tôi không hiểu sao lại phải
dạy chúng học ngược cả. Dạy bất cứ thứ gì ngược ngạo đều chả có ích lợi gì.
Toàn bộ mục đích sống, thưa bà Hiệu trưởng, là đi tới. Tôi xin mạo muội hỏi ngay
cả bà đây, liệu bà có thể đánh vần ngược một từ đơn giản như sai trái được không. Tôi nghi ngờ về
chuyện đó lắm.”
“Đừng có hỗn với tôi, Cô Honey!” mụ
Trunchbull gắt gỏng bảo, rồi quay lại với thằng Wilfred bất hạnh. “Được rồi, thằng
nhóc,” mụ bảo. “Trả lời tao câu này. Tao có 7 quả táo, 7 quả cam, 7 quả chuối.
Tổng cộng tao có bao nhiêu quả? Nhanh lên! Tính đi! Cho tao đáp án nào!”
“Đó là phép cộng!” Wilfred kêu lên, “Không phải bảng nhân ba!”
“Thằng ngu vãi kia,” mụ Trunchbull
gào lên. “Đồ nướu lợi sưng phù kia! Đồ rệp cắn úi xùi kia! Đó chính là bảng nhân ba! Mày có ba thứ quả
khác nhau và mỗi thứ có 7 quả. Ba lần bảy là 21. Mày không thấy thế sao, hả đồ
cầu tiêu tắc! Tao cho mày cơ hội nữa. Tao có 8 quả dừa, 8 hạt lạc, và 8 hột mít
nhỏ nhít ngốc xít y như mày. Tao có bao nhiêu quả cả thảy? Trả lời tao nhanh
lên.”
Thằng Wilfred khốn khổ hoàn toàn bối
rối. “Đợi đã!” nó kêu lên. “Xin đợi đã! Em phải cộng 8 quả dừa với 8 hạt lạc!”
Nó bắt đầu đếm trên đầu ngón tay.
“Đồ mụn nhọt mưng mủ!” mụ Trunchbull
rú lên. “Đồ giòi bọ mục ruỗng! Đó không
phải phép cộng! Mà là phép nhân! Đáp án là ba lần tám! Hay là tám lần ba?
Thế ba lần tám với tám lần ba có gì khác nhau nào? Nói tao nghe coi, đồ củ đậu
đần thối, và nghĩ cho kỹ vào!”
Tới đây thì Wilfred quá hoảng sợ và
hoang mang đến độ không tài nào nói nổi.
Mụ Trunchbull sải hai bước là đã tới
bên nó, và bằng một đòn thể dục đáng kinh ngạc, có thể là nhu đạo hay karate gì
đó, mụ ta búng chân vào má sau cặp giò thằng Wilfred và thằng nhóc bay bổng khỏi
mặt đất, lộn nhào trong không khí. Nhưng khi nó bay được nửa đường thì mụ tóm lấy
cổ chân nó, rồi giữ nó chúc ngược xuống, lủng là lủng lẳng như con gà bị vặt
lông bày trong quầy hàng.
“Ba lần tám,” mụ Trunchbull gào lên,
nắm cổ chân thằng Wilfred lắc lư, “ba lần tám cũng như tám lần ba, và ba lần
tám là 24! Nhắc lại nào!”
Đúng lúc đó, thì Nigel, ở đầu kia
căn phòng, nhảy dựng lên và bắt đầu chỉ tới tấp về phía bảng đen, miệng gào
thét, “Viên phấn! Viên phấn! Nhìn viên phấn kìa! Nó đang tự di chuyển!”
Tiếng thét của Nigel the thé và kích
động tới nỗi mọi người trong lớp, kể cả mụ Trunchbull, đều nhìn lên bảng đen.
Và kìa, chắc như đinh đóng cột, một viên phấn mới toanh đang lảng vảng gần bề mặt
của tấm bảng có màu xám đen.
“Nó
viết kìa!” thằng Nigel la lên. “Viên
phấn đang viết cái gì đó kìa!”
Và nó viết thật. (Tấm bảng hiện lên chữ, “Agatha”)*
“Thứ
điên khùng này là gì vậy?” mụ Trunchbull rú lên. Mụ run lên khi thấy tên
mình được một bàn tay vô hình viết ra như thế. Rồi mụ rú lên nhưng chả với ai cả,
“Ai làm chuyện này? Ai đang viết vậy?”
Viên phấn tiếp tục viết. (Tấm bảng hiện lên dòng chữ, “Agatha, đây
là Magnus. Đây là Magnus...”)
Mọi người trong lớp nghe một tiếng hổn
hển phát ra từ cổ họng mụ Trunchbull. “Không!” mụ rú lên. “Không thể nào! Không
thể là Magnus được!”
(Tấm
bảng hiện tiếp dòng chữ, “Chính là Magnus. Và tốt hơn cô nên tin điều
đó…”)
Cô Honey đứng ở đầu kia căn
phòng liếc mắt thật nhanh sang phía Matilda. Đứa trẻ đang ngồi thẳng tại bàn, đầu
ngẩng cao, miệng mím chặt, mắt long lanh như hai vì sao.
(Tấm
bảng hiện tiếp dòng chữ, “Agatha, trả nhà lại cho Jenny của tôi..)
Giờ vì lý do nào đó mọi người
đều nhìn cả vào mụ Trunchbull. Mặt mụ ta đang chuyển sang màu trắng như tuyết,
miệng mụ mở ra, đóng vào như con cá bơn bị kéo ra khỏi nước, và mụ tuôn ra một
tràng hơi hổn hển.
(Tấm
bảng hiện tiếp, “Trả lại lương cho Jenny của tôi. Trả lại nhà cho Jenny của
tôi. Rồi cút khỏi nơi này. Nếu cô không làm thế, tôi sẽ tới lôi cổ cô đi. Tôi sẽ
tới lôi cô đi như cô đã làm với tôi. Tôi trông chừng cô đấy, Agatha ạ…”)
Viên phấn ngừng viết. Nó lờn vờn
trong giây lát, rồi thình lình rơi cái cạch xuống sàn, vỡ ra làm đôi.
Wilfred, kẻ đang cố quay lại chỗ ngồi
của mình ở dãy bàn đầu, bỗng ré lên, “Cô Trunchbull ngã rồi! Cô Trunchbull nằm
bẹp trên sàn rồi!”
Đó quả là tin động trời nhất hạng và
cả lớp liền nhảy bổ ra khỏi ghế để được tận mắt nhìn cho rõ. Và kìa bà ta ở
kia, bà Hiệu trưởng có thân hình bồ tượng, đương nằm thái lai trên sàn nhà, chả
còn biết trời trăng mây nước gì nữa.
Cô Honey chạy đến, quỳ xuống bên con
quỷ khổng lồ đang nằm sóng soài. “Cô ấy xỉu rồi!” cô kêu lên. “Cô ấy lạnh lắm!
Ai đi gọi y tá tới ngay đi.” Ba đứa trẻ chạy ào ra khỏi phòng.
Nigel, kẻ luôn sẵn sàng hành động,
liền nhảy lên vồ lấy bình nước lớn. “Bố em nói nước lạnh là cách tốt nhất để
làm người ngất đi tỉnh lại,” nó nói, và đổ ụp toàn bộ số nước trong bình lên đầu
bà Trunchbull. Không ai, kể cả Cô Honey, phản đối hành động đó.
Về phần Matilda, cô tiếp tục ngồi bất
động tại bàn. Cô đang có cảm giác hân hoan kỳ lạ. Cô thấy như thể mình đã chạm
tới thứ gì đó không thuộc về thế giới này, thứ gì đó ở đỉnh cao thiên đường, ở
ngôi sao xa xăm nhất. Cô đã thấy theo cách tuyệt vời nhất luồng sức mạnh dâng
trào phía sau mắt mình, phun ra như dòng
nước ấm áp bên trong sọ mình, rồi mắt cô chợt nóng bỏng cả lên, rồi những thứ
đó tuôn ra qua hốc mắt cô, viên phấn tự nâng lên và bắt đầu viết. Như thể cô chả
làm gì cả, chỉ đơn giản có thế thôi.
Y tá trường, cùng với năm giáo viên
khác, hai nam ba nữ, đến là nhào vào phòng.
“Ối chu cha, cuối cùng ai đó đã vật mụ
ta ngã lăn quay ra sàn nhà!” một thầy giáo kêu lên, miệng cười nhăn nhở. “Chúc
mừng cô, Cô Honey!”
“Ai đổ nước lên đầu bà ấy vậy?” cô y
tá hỏi.
“Em đấy ạ,” Nigel tự hào đáp.
“Em giỏi lắm,” một giáo viên khác
kêu lên. “Ta đổ thêm tí chứ?”
“Dừng việc đó lại,” cô y tá nói. “Ta
phải khênh bà ấy xuống bệnh xá.”
Phải mất năm giáo viên và cả cô y tá
mới khênh được mụ đàn bà hộ pháp ấy loạng choạng ra khỏi phòng.
Cô Honey nói với cả lớp, “Cô nghĩ
các em nên ra ngoài sân, chơi vui vẻ cho tới giờ học tiếp theo.” Rồi cô quay lại,
đi về phía bảng đen, cẩn thận lau sạch những gì viên phấn đã viết trên đó.
Bọn trẻ bắt đầu ùa ra khỏi phòng.
Matilda tính đi cùng chúng, nhưng khi đi qua Cô Honey thì cô dừng lại, ánh mắt
lấp lánh của cô bắt gặp ánh mắt của cô giáo, và rồi Cô Honey chạy tới, ôm chầm
lấy đứa trẻ bé tí và hôn nó một cái.
TỔ ẤM MỚI
Ngay sau đó, tin tức loan ra rằng bà
Hiệu trưởng đã tỉnh lại và sải bước ra khỏi trường, môi mím chặt, mặt tái mét.
Buổi sáng hôm sau, bà ta không tới
trường. Vào giờ ăn trưa, Ông Trilby, Phó hiệu trưởng trường, bèn gọi điện tới
nhà bà ta để hỏi xem, liệu bà ta có khó ở hay không. Điện thoại không ai trả lời.
Tan trường, Ông Trilby quyết định tìm
hiểu kỹ hơn, thế là ông đi bộ tới ngôi nhà mà Bà Trunchbull sống ở bìa làng, một
ngôi nhà nhỏ đáng yêu xây bằng gạch đỏ, có từ thời các vua George[1],
còn được biết dưới cái tên Hồng Dinh, cách xa làng, lẩn trong rừng, bên dưới
các ngọn đồi.
Ông nhấn chuông. Không ai trả lời.
Ông gõ cửa thật to. Không ai trả lời.
Ông gọi tướng cả lên, “Có ai ở nhà
không?” Không ai trả lời.
Ông thử mở cửa và ngạc nhiên khi thấy
nó không đóng. Ông vào nhà.
Ngôi nhà yên ắng và không ai ở đó,
dù tất cả đồ đạc còn nguyên. Ông Trilby đi lên lầu, vào phòng ngủ chính. Ở đây
mọi thứ vẫn có vẻ bình thường cho tới khi ông bắt đầu mở các ngăn kéo, nhìn vào
các tủ tường. Không có quần áo to nhỏ, giày dép gì cả. Tất cả đều biến mất.
“Mụ ta dông mất tiêu rồi,” Ông
Trilby tự nhủ, rồi về thẳng trường để thông báo với Hội đồng quản trị là bà Hiệu
trưởng rõ ràng đã lẩn mất.
Buổi sáng hôm sau nữa, Cô Honey nhận
được thư bảo đảm gửi theo đường bưu điện từ một công ty luật địa phương, thông
báo với cô là di chúc và ý nguyện cuối cùng của người cha quá cố của cô, Bác sĩ
Honey, đã xuất hiện thình lình và đầy bí hiểm. Văn bản này cho biết, ngay khi bố
mất, Cô Honey thật ra là người chủ hợp pháp của khối tài sản nằm ở bìa làng, được
biết dưới cái tên Hồng Dinh, mà cho tới nay đã bị Bà Agatha Trunchbull chiếm giữ.
Di chúc cũng cho biết, những khoản tiết kiệm trọn đời của bố cô, may mắn thay vẫn
được giữ cẩn thận ở nhà băng, cũng được chuyển lại cho cô. Thư của luật sư còn
nói thêm là nếu Cô Honey vui lòng gọi điện tới văn phòng công ty càng sớm càng
tốt, thì khối tài sản và tiền bạc kia có thể sang tên cho cô rất nhanh chóng.
Cô Honey làm đúng như thế, và trong
vòng vài tuần, cô đã chuyển tới Hồng Dinh, chính là nơi cô từng lớn lên và may
mắn thay, toàn bộ đồ đạc, tranh ảnh gia đình vẫn còn ở đó. Từ đấy trở đi,
Matilda trở thành vị khách luôn được chào đón tới Hồng Dinh mỗi chiều sau giờ
tan trường, và một tình bạn vô cùng thắm thiết bắt đầu nảy nở giữa hai cô trò.
Về phía trường học, cũng có những
thay đổi lớn. Ngay khi ai cũng biết là Bà Trunchbull đã biệt vô âm tín, thì Ông
Trilby xuất sắc được chỉ định làm Hiệu trưởng thay bà ta. Không lâu sau đó,
Matilda được chuyển lên lớp đứng đầu, nơi Cô Plimsoll nhanh chóng phát hiện ra
rằng đứa trẻ đáng kinh ngạc này thông minh về mọi mặt, y như những gì Cô Honey
đã bảo.
Một buổi tối sau đấy vài tuần,
Maltida đang dùng trà với Cô Honey trong bếp của biệt thự Hồng Dinh như thường
lệ, thì đột nhiên cô nói, “Có điều gì đó lạ lắm đã xảy ra với em, Cô Honey ạ.”
“Kể cô nghe xem nào,” Cô Honey bảo.
“Sáng nay,” Matilda kể, “em tính làm
chơi cho vui, nên thử dùng mắt đẩy thứ gì đó đi nhưng không làm được. Không
có gì di chuyển cả. Em thậm chí còn không cảm thấy sức nóng dồn lên phía sau mắt
nữa. Quyền năng đó mất rồi. Em nghĩ mình đã hoàn toàn mất nó.”
Cô Honey cẩn thận phết bơ mềm lên một
miếng bánh mì nâu và thêm ít mứt dâu lên trên. “Cô đã mong điều gì đó như thế xảy
ra,” cô nói.
“Cô đã mong thế ư? Tại sao mới được
chứ?” Matilda hỏi.
“Ừ,” Cô Honey đáp, “thì đoán thôi
nhé, nhưng đây là điều cô nghĩ. Khi học ở lớp cô, em chẳng có gì để làm, chẳng
có gì để phấn đấu cả. Bộ não khá khủng của em liền điên lên vì bực tức. Nó sủi
bọt, sôi ùng ục như điên trong đầu em. Có luồng năng lượng lớn bị tắc lại ở đó
mà chả có nơi nào để đi, và bằng cách này hay cách khác, em đã bắn được luồng năng
lượng ấy ra đằng mắt và khiến đồ vật di chuyển. Nhưng giờ sự việc đã khác. Em học
ở lớp đứng đầu, phải ganh đua với các anh chị có tuổi lớn hơn gấp đôi mình, thì
tất cả năng lượng trí óc kia đều đã được dùng hết trong lớp. Bộ não của em lần
đầu phải tranh đấu, giành giựt, thật sự bận bịu, mà thế lại hay. Đó chỉ là một
giả thuyết, xin em hãy nhớ lấy, và nghe thì có thể ngớ ngẩn, nhưng cô không
nghĩ nó xa với sự thật là mấy.”
“Em mừng là nó xảy ra,” Matilda bảo.
“Em không muốn sống cả đời như một người tạo ra phép lạ.”
“Em làm đủ rồi,” Cô Honey bảo. “Cô tới
giờ vẫn không tin được là em đã làm toàn bộ điều đó vì cô.”
Matilda, người đang ngồi vắt vẻo
trên chiếc ghế cao cạnh bàn ăn ở bếp, chầm chậm chén món bánh mì và mứt của
mình. Cô thực sự thích những buổi chiều thế này cùng Cô Honey. Cô hoàn toàn cảm
thấy thoải mái khi cô giáo có mặt, và hai cô trò nói chuyện với nhau ít nhiều
như những người đồng trang lứa.
“Cô có biết là,” Matilda đột nhiên hỏi,
“tim chuột đập với tốc độ sáu trăm năm
mươi lần một phút không?”
“Không, cô không biết,” Cô Honey mỉm
cười đáp. “Hay quá nhỉ. Mà em đọc nó ở đâu thế?”
“Trong sách mượn từ thư viện đấy ạ,”
Matilda bảo. “Mà điều đó có nghĩa là nó đập nhanh đến độ cô không thể nghe rõ từng
nhịp một. Nó chắc nghe giống tiếng vo ve ấy.”
“Chắc là thế,” Cô Honey đáp lại.
“Và cô nghĩ tim nhím thì đập nhanh đến
đâu?” Matilda hỏi.
“Nói cô biết đi,” Cô Honey lại mỉm
cười đáp lại.
“Không nhanh như tim chuột,” Matilda
bảo. “Chỉ 300 lần/phút thôi. Nhưng ngay cả thế thì cô cũng chẳng nghĩ tim nó đập
nhanh thế trong khi con vật đó di chuyển chậm như thế, Cô Honey nhỉ?”
“Chắc chắn là thế rồi,” Cô Honey bảo.
“Nói cô nghe nữa đi.”
“Ngựa,” Matilda bảo. “Tim nó đập chậm
lắm. Chỉ có 40 lần/phút.”
Đứa trẻ này, Cô Honey tự nhủ, hình
như quan tâm tới mọi thứ. Ai ở với nó, thì không thể chán được. Mình thích thế.
Hai cô trò tiếp tục ngồi đó, nói
chuyện trong bếp khoảng một tiếng hay hơn, và khi đồng hồ chỉ gần sáu giờ, thì
Matilda tạm biệt cô giáo rồi cuốc bộ về nhà mình, cách đó 8 phút đi bộ. Khi tới
cổng nhà, cô thấy một chiếc xe Mercedes đen to đùng đang đậu bên ngoài. Cô
không chú ý nhiều đến nó. Có rất nhiều xe lạ thường đến đậu bên ngoài nhà cô.
Nhưng khi bước vào nhà, thì cô đối mặt với quang cảnh hỗn độn. Bố mẹ cô đang ở
sảnh trước, điên cuồng nhồi nhét quần áo và vô số vật dụng khác vào va li.
“Chuyện quái gì đang xảy ra vậy?” cô
la lên. “Chuyện gì vậy hả Bố?”
“Chúng ta đi thôi,” Ông Wormwood bảo,
không nhìn lên. “Chúng ta rời nhà ra sân bay trong vòng nửa giờ nữa, vậy tốt nhất
mày nên thu xếp đồ đạc đi. Anh mày trên lầu đã sẵn sàng cả rồi đấy. Nhanh lên
nào, con gái! Lên thu xếp đi!”
“Đi?” Matilda la lên. “Đi đâu mới được
chứ?”
“Tây Ban Nha,” ông bố nói. “Bên đó
thời tiết tuyệt hơn ở cái đất nước tệ hại này.”
“Tây Ban Nha!” Matilda lại la lớn.
“Con không muốn đi Tây Ban Nha! Con yêu nơi này, yêu trường con!”
“Cứ làm theo lời tao bảo và đừng
tranh cãi nữa,” ông bố gắt lên. “Tao có đủ rắc rối rồi, không cần tới mày làm
nhặng lên đâu!”
“Nhưng Bố ơi…” Matilda mở miệng kêu.
“Im mồm!” ông bố hét lên. “Chúng ta
sẽ rời nhà trong 30 phút nữa! Tao không muốn lỡ máy bay đâu!”
“Nhưng mình đi bao lâu hở Bố?”
Matilda hỏi. “Khi nào mình trở lại?”
“Ta không quay lại nữa!” ông bố bảo.
“Giờ cút ngay! Tao bận lắm!”
Matilda quay lưng lại phía bố và bước
ra cửa trước. Ngay khi chân chạm mặt đường, thì cô bắt đầu chạy. Cô chạy thẳng
tới nhà Cô Honey và chưa tới bốn phút cô đã tới đó. Cô ào vào theo lối dành cho
xe chạy, rồi đột nhiên cô thấy Cô Honey đang ở khu vườn trước nhà, đứng giữa luống
hoa hồng, làm gì đấy với chiếc kéo trên tay. Cô Honey nghe tiếng chân Matilda
chạy rào rào trên sỏi và giờ cô đứng thẳng dậy, quay người lại, bước khỏi luống
hồng ngay khi đứa trẻ vừa chạy tới.
“Trời ơi, trời ơi,” cô kêu lên.
“Chuyện quái gì xảy ra vậy?”
Matilda đứng trước mặt cô, thở không
ra hơi, gương mặt nhỏ nhắn của cô bé ửng hồng cả lên.
“Họ sắp rời đi!” cô kêu lên. “Họ điên cả rồi, họ đang nhồi va li và sắp đi
Tây Ban Nha trong vòng 30 phút nữa!”
“Ai cơ?” Cô Honey lặng lẽ hỏi.
“Bố mẹ và anh Mike của em, và họ bảo
em phải đi với họ!”
“Ý em là đi nghỉ mát hả?” Cô Honey hỏi.
“Đi mãi mãi ấy!” Matilda kêu lên. “Bố bảo là bọn em không bao giờ quay lại nữa!”
Có một chút yên lặng, rồi Cô Honey bảo,
“Thật ra cô chả lấy gì làm ngạc nhiên.”
“Ý cô là cô biết họ sẽ đi à?” Matila la lên. “Sao cô không nói với em?”
“Không, em yêu,” Cô Honey bảo. “Cô
không biết là họ sẽ đi. Nhưng việc họ đi không làm cô ngạc nhiên.”
“Sao vậy?” Matilda lại la lớn. “Nói
cho em biết tại sao đi.” Cô bé vẫn không thở ra hơi do phải chạy và bị sốc vì tất
cả mọi thứ.
“Vì bố em,” Cô Honey bảo, “làm ăn với
bọn lừa đảo. Mọi người trong làng ai cũng biết. Cô đoán ông ấy là người thu nhận
mớ xe ăn cắp được trên khắp cả nước. Ông ấy lún sâu vào chuyện này rồi.”
Matilda nhìn chằm chằm vào cô giáo,
miệng há hốc.
Cô Honey nói tiếp, “Người ta mang xe
ăn cắp được tới chỗ bố em, nơi ông ấy thay biển số, sơn lại xe, và làm tất cả mọi
thứ tút tát khác. Và giờ ai đó hé lộ cho ông ấy biết là cảnh sát sắp đến tóm cổ
ông ta, thế là ông ta làm như mọi kẻ khác đều làm, cao chạy xa bay tới Tây Ban
Nha, nơi không ai bắt được ông ta cả. Ông ta đã gửi tiền qua đó trong suốt nhiều
năm, sẵn sàng chờ tới lúc trốn chạy qua đó.”
Họ đang đứng trên trảng cỏ phía trước
ngôi nhà xây bằng gạch đỏ đáng yêu, với mái ngói đỏ cũ kỹ bạc màu mưa gió, và
Cô Honey vẫn cầm trong tay cây kéo. Đó là một buổi tối nắng vàng ấm áp và một
chú chim két đương ca hát gần đó.
“Em không muốn đi cùng bọn họ!”
Matilda thình lình kêu lên. “Em không đi với họ đâu!”
“Cô e em phải làm thế thôi,” Cô
Honey bảo.
“Em muốn sống ở đây với cô,” Matilda
kêu lên. “Hãy cho em ở đây với cô nhé!”
“Cô ước gì em có thể,” Cô Honey đáp.
“Nhưng cô e điều đó không được đâu. Em không thể thích là bỏ cha mẹ mình được.
Họ có quyền dẫn em đi cùng.”
“Nhưng nếu họ đồng ý thì sao?”
Matilda háo hức kêu lên. “Nếu họ đồng ý, liệu em có thể ở cùng cô không? Khi đó
cô có cho em ở cùng cô không?”
Cô Honey nhỏ nhẹ bảo, “Có chứ, thế
thì tuyệt nhất trần đời rồi.”
“Ồ, em nghĩ họ có thể đồng ý!”
Matilda kêu lên. “Thật lòng em nghĩ là họ có thể làm thế! Thực ra họ coi em chả
đáng xu teng nào cả!”
“Đừng nhanh nhảu thế chứ,” Cô Honey
bảo.
“Chúng ta phải nhanh lên chứ!”
Matilda kêu lên. “Họ sắp rời khỏi đây bất cứ lúc nào! Đi nào!” cô bé la to, nắm
lấy tay cô giáo. “Hãy đi với em, đến hỏi họ! Nhưng ta phải mau lên! Phải chạy
thôi!”
Giây lát sau hai cô trò đã cùng chạy
trên lối dành cho xe chạy, rồi ùa ra đường, Matilda chạy trước, lôi Cô Honey chạy
theo sau, và đó là cuộc đua nước rút tuyệt vời, dữ dội mà họ thực hiện dọc con
đường quê, xuyên qua ngôi làng tới căn nhà nơi cha mẹ Matilda đang ở. Chiếc
Mercedes đen vẫn nằm bên ngoài nhà và giờ nắp xe phía sau, cửa xe tứ phía được
mở ra, còn Ông và Bà Wormwood cùng cậu con trai thì đang hối hả lượn quanh như
kiến vỡ tổ, chất va li đầy đống vào phía sau xe, khi Maltida và Cô Honey ào đến.
“Bố mẹ ơi!” Matilda kêu ầm cả lên, vừa
thở hổn hển. “Con không muốn đi với bố mẹ! Con muốn ở lại, sống cùng Cô Honey
và cô ấy bảo con có thể làm thế nếu bố mẹ cho phép! Hãy đồng ý đi! Đi nào Bố, đồng
ý đi! Đồng ý, Mẹ nhé!”
Ông bố quay lại, nhìn Cô Honey. “Cô
là nữ giáo viên từng đến gặp tôi, phải không?” ông ta hỏi. Rồi quay lại tiếp tục
xếp va li vào xe.
Bà vợ bảo ông ta, “Cái này phải để ở
ghế sau. Khoang xe hết chỗ rồi.”
“Tôi thích có Matilda lắm,” Cô Honey
nói. “Tôi sẽ trông nom cô bé bằng sự quan tâm đầy tình yêu thương, thưa Ông
Wormwood, và tôi sẽ thanh toán mọi thứ. Cô bé không đáng xu teng nào với ông
bà. Đó không phải ý tôi. Là ý của Matilda. Nhưng tôi không đồng ý nhận nó nếu
không được sự ưng thuận tự nguyện và đầy đủ của ông bà.”
“Nhanh lên, Harry,” bà mẹ nói, đẩy
cái va li vô ghế sau. “Sao ta không cho nó đi nếu nó thích thế nhỉ? Sẽ bớt một
đứa phải trông nom.”
“Tôi đang vội lắm,” ông bố nói. “Tôi
phải bắt máy bay. Nếu nó muốn ở lại, thì cho nó ở lại. Với tôi việc đó tốt cả
mà.”
Matilda sà vào vòng tay Cô Honey, ôm
chầm lấy cô, còn Cô Honey thì ôm lại cô bé, và rồi bố, mẹ, anh trai cô chui vào
xe và chiếc xe gầm rú, kéo lê bánh lăn đi. Cậu anh vẫy tay chào qua cửa kính
phía sau, nhưng hai người kia thì không thèm ngoái nhìn lại. Cô Honey vẫn vòng
tay ôm lấy cô bé tí ti và bọn họ không ai nói một từ nào khi đứng đó, nhìn theo
chiếc xe màu đen to tướng đương gào rú quanh góc cua cuối đường rồi vĩnh viễn
biến về nơi xa.
-HẾT-
No comments:
Post a Comment