Saturday, October 5, 2013

Matilda -- Chapters 3 & 4



CÁI NÓN VÀ KEO SIÊU DÍNH

            Sáng hôm sau, ngay trước khi bố rời nhà tới cái ga-ra xe cũ tởm lợm, Matilda lẻn vào phòng để áo khoác và túm lấy chiếc nón ông ta thường đội đi làm hằng ngày. Cô phải nhón chân hết cỡ, tay cầm thêm cây ba-toong, mới khều được nó ra khỏi móc. Bản thân chiếc nón là loại có phần đỉnh bằng, đáy dày như món bánh nhân thịt lợn, còn vành thì đính một chiếc lông chim giẻ cùi, và Ông Wormwood rất tự hào về nó. Ông ta nghĩ nó tạo cho mình dáng vẻ ngang tàng táo tợn, đặc biệt khi ông đội nghiêng nó đi kèm với chiếc áo vét kẻ sọc và cà vạt xanh lục.
            Matilda, một tay cầm nón, một tay cầm lọ keo Siêu dính, bắt đầu bôi một đường thật gọn quanh rìa trong chiếc nón. Rồi cô cẩn thận dùng cây ba-toong treo nó trở lại móc. Cô tính giờ thật kỹ, để kịp bôi keo trước khi bố dùng xong bữa sáng.
            Ông Wormwood không để ý gì khi đội nón lên, nhưng khi tới ga-ra thì ông không thể cởi nó ra. Siêu dính là loại keo cực dính, dính tới nỗi nó sẽ kéo tuột da ra nếu bạn lôi quá mạnh. Ông Wormwood không muốn bị trọc đầu nên phải đội nón cả ngày, ngay cả lúc tra mùn cưa vào hộp số và dùng khoan điện vặn lùi số dặm đường đi của xe. Để giữ thể diện, ông làm bộ tự nhiên, với hi vọng đám nhân viên nghĩ rằng ông cố tình đội nón cả ngày chỉ để, quỷ tha ma bắt nó đi, cho vui mà thôi, kiểu mấy tay găng-tơ hay làm trong phim ảnh ấy mà.
            Tối đó, khi về lại nhà, ông vẫn không cởi nón ra được. “Đừng ngốc thế,” vợ ông ta bảo. “Lại đây. Em sẽ lấy nó ra cho anh.”
            Bà ta giật mạnh chiếc nón. Ông Wormwood hét ầm lên tới nỗi kính cửa kêu lạo xạo. “Ối!” ông ta hét. “Đừng làm thế! Bỏ ra đi! Em lột một nửa da trán của anh ra mất!”
            Matilda, đang rúc mình trong chiếc ghế thường lệ, thích thú ngó xem tấn tuồng qua rìa cuốn sách.
            “Chuyện gì thế bố?” cô bé hỏi. “Đầu bố bỗng sưng lên hay bị gì thế?”
            Ông bố liếc nhìn con gái bằng ánh mắt nghi ngờ, song không nói gì. Sao ông ta làm thế được nhỉ? Bà Wormwood bảo chồng. “Hẳn là keo Siêu dính rồi. Không thể thứ khác được. Chuyện này dạy cho anh bài học về việc nghịch ngợm với mấy thứ tởm lợm ấy nhé. Em mong anh sẽ đính thử cái lông khác lên nón.”
             “Anh không rớ tới mấy thứ nóng rãy ấy!” Ông Wormwood hét lên. Ông ta quay lại, nhìn Matilda lần nữa, kẻ đang nhìn ông bằng đôi mắt nâu to tướng vô tội.
           Bà Wormwood bảo chồng, “Anh nên đọc kỹ nhãn dán trên lọ trước khi dùng mấy thứ nguy hiểm ấy. Luôn phải làm theo hướng dẫn trên đó.”
            “Cô nói cái quái gì thế hở con đàn bà ngu ngốc kia?” Ông Wormwood hét lên, tay nắm chặt vành mũ để không cho ai lôi nó ra khỏi đầu mình lần nữa. “Bộ cô nghĩ tôi ngu tới mức đi bôi keo dính thứ này vào đầu mình hả?”
            Matilda nói, “Có thằng bé dưới phố đã bôi ít keo Siêu dính vào đầu ngón tay mà không biết đấy, sau đó nó còn dùng tay ngoáy mũi.”
            Ông Wormwood nhảy lên. “Chuyện gì xảy ra với nó?” ông ta lắp bắp.
            “Ngón tay dính chặt vào mũi,” Matilda đáp. “và nó cứ thế đi loanh quanh suốt một tuần liền. Ai gặp cũng bảo, ‘Đừng ngoáy mũi nữa,’ nhưng nó chả làm được gì. Trông nó như thằng cực ngốc ấy.”
            “Đáng đời nó,” Bà Wormwood nói. “Từ đầu lẽ ra nó đừng dùng tay ngoáy mũi. Đấy là thói quen bẩn thỉu. Nếu bọn trẻ đều bị bôi keo Siêu dính vào tay thì chúng phải sớm từ bỏ thói quen ấy thôi.”
            Matilda đáp, “Người lớn cũng thế mà mẹ. Con thấy mẹ hôm qua làm thế trong bếp.”
            “Mày đủ rồi đấy,” Bà Wormwood bảo, mặt hồng cả lên.
            Ông Wormwood phải đội nón trên đầu suốt bữa tối trước ti-vi. Ông ta trông thật ngớ ngẩn và lặng như tờ.
            Khi lên giường, ông ta lại thử gỡ nó ra, bà vợ cũng giúp, song chiếc nón chả nhúc nhích gì. “Tôi làm sao tắm được đây?” ông ta gặng hỏi.
            “Anh sẽ tắm mà không đội nón, đúng không?” bà vợ bảo. Để rồi sau đó, khi nhìn ngó ông chồng bé nhỏ gầy gò của mình lỉnh vào nhà tắm trong bộ áo ngủ sọc tím cùng chiếc nón hình bánh nhân thịt lợn trên đầu, bà ta nghĩ, ông trông thật ngu ngốc. Bà tự nhủ, đây là kiểu đàn ông khó có bà vợ nào thèm mơ tới.
            Ông Wormwood phát hiện ra rằng, điều tệ hại nhất của việc đội một chiếc nón thường trực trên đầu là phải ngủ với nó. Nằm thoải mái trên gối là điều không làm được. “Giờ đừng làm ồn nữa,” bà vợ bảo chồng sau khi ông ta hết lăn tới lăn lui lại trở mình qua lại suốt một giờ đồng hồ. “Em mong sáng ra nó sẽ lỏng bớt và rơi ra dễ dàng.”
            Nhưng sáng hôm sau chiếc nón vẫn không lỏng bớt và chả chịu rơi ra. Vì thế Bà Wormwood bèn dùng kéo, cắt phăng đi phần nón bám quanh đầu chồng, từng tí từng tí một, đầu tiên là đỉnh, rồi tới vành nón. Nơi rìa trong chiếc nón bám quanh đầu và sau ót chồng, bà phải cắt sát đến độ cuối cùng ông ta có một vòng tròn trọc lóc quanh đầu, trông hệt anh thầy tu. Còn phía trước, nơi rìa ngoài chiếc nón bám rịt vào da, thì dính lại vô số đốm da thuộc lấm chấm màu nâu, không tài nào gột được.
            Lúc ăn sáng Matilda bảo bố, “Bố cố làm sạch mấy mẩu da kia khỏi trán đi, bố ạ. Chúng làm bố trông như bị đám bọ màu nâu bò lên người ấy. Mọi người sẽ nghĩ bố bị bệnh chấy rận mất.”
            “Im!” ông bố cắn cảu. “Ngậm ngay cái mồm bẩn thỉu của mày lại!”
            Nhìn chung đó là bài diễn tập tốt. Song chắc chắn sẽ có quá nhiều hi vọng khi cho rằng nó dạy ông bố kia một bài học bền lâu.

CON MA
           
            Có một sự im lặng tương đối trong hộ nhà Wormwood suốt một tuần sau vụ keo Siêu dính. Vụ này uốn nắn Ông Wormwood đâu ra đấy nên ông ta hình như tạm thời mất đi dáng điệu khoe khoang, bắt nạt của mình.
            Nhưng thình lình ông ta bật trở lại. Có lẽ ông ta đã có một ngày tệ hại ở ga-ra, và bán không đủ số xe cũ kỹ rởm rít. Có nhiều điều khiến một gã đàn ông nổi đóa khi hắn từ chỗ làm trở về nhà vào buổi tối và một bà vợ khôn ngoan thường nhận ra điều đó – dấu hiệu trời chuyển giông, và biết mình nên để chồng ở một mình cho tới khi hắn ta nguôi giận.
            Khi Ông Wormwood từ ga-ra xe trở về nhà tối hôm đó, mặt ông ta trông như đám mây sấm, và ai đó rõ ràng sẽ sớm phải nhảy dựng lên. Bà vợ nhận ngay ra dấu hiệu giông bão, liền lánh đi. Ông chồng bước vào phòng khách. Matilda tình cờ đang ở đó, rúc mình trong chiếc ghế bành ở góc phòng, hoàn toàn nhập tâm vào cuốn sách. Ông Wormwood bật ti-vi lên. Màn hình lóe sáng. Chương trình ré lên. Ông ta nhòm sang Matilda. Cô không động đậy. Bằng cách nào đó cô đã luyện cho mình cách bưng tai bịt mắt trước tiếng động khủng khiếp phát ra từ chiếc ti-vi đáng sợ. Cô tiếp tục đọc sách, và vì lý do nào đấy, việc này làm ông bố nổi điên. Có lẽ cơn giận của ông ta tăng lên là do ông nhận thấy nơi cô niềm vui sướng có được từ thứ gì đó vượt quá khả năng của ông.
            “Mày không lúc nào dừng đọc được sao?” ông ta cắn cảu.
            “Ồ chào bố,” cô vui vẻ nói. “Hôm nay bố làm việc tốt chứ?”
            “Thứ rác rưởi này là gì vậy?” ông ta hỏi, giật lấy cuốn sách từ tay cô bé.
            “Nó không phải rác rưởi đâu, bố ạ, nó hay lắm. Tên nó là Chú ngựa nhỏ màu đỏ. Sách của John Steinbeck, một nhà văn Mỹ. Sao bố không thử xem? Bố sẽ thích nó đấy.”
            “Đồ cùi hủi,” Ông Wormwood đáp. “Nếu do một thằng người Mỹ viết ra, thì dĩ nhiên nó là đồ cùi hủi. Đó là thứ bọn chúng viết ra mà.”
            “Không, bố ơi, nó tuyệt lắm, thật đấy. Nó nói về…”
            “Tao không muốn biết nó nói về cái gì,” Ông Wormwood gầm lên. “Tao ngán việc mày đọc sách lắm rồi. Đi tìm thứ gì đó hữu dụng mà làm,” Rồi đột nhiên ông ta bắt đầu nắm từng mớ trang sách mà xé và quẳng chúng vào thùng rác.
            Matilda lặng đi vì sợ. Ông bố vẫn tiếp tục. Rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa, gã đàn ông này đang thấy có chút gì đó ghen tị. Sao nó dám, ông ta như nói với từng mớ sách bị xé, sao nó dám thích thú đọc sách khi mà mình thì không? Sao nó dám chứ?
            “Đó là sách thư viện!,” Matilda hét lên. “Không phải sách của con! Con phải trả nó cho Bà Phelps!”
            “Vậy mày phải đi mua cuốn khác, đúng không?” Ông bố đáp, tay vẫn xé sách. “Mày phải để dành tiền tiêu vặt tới khi đủ mua một cuốn mới cho Bà Phelps yêu quý của mày, đúng không?” Tới đó ông ta thả cái bìa sách rỗng không xuống thùng rác và sải bước ra khỏi phòng, để lại chiếc ti-vi đương gào rú.
            Đa phần trẻ em ở vào trường hợp Matilda sẽ òa khóc. Song cô bé không làm thế. Cô ngồi im đó, mặt trắng nhợt, đầu suy nghĩ. Cô dường như hiểu rằng khóc lóc hay hờn dỗi đều chả đưa ta đến đâu. Việc duy nhất đáng làm khi bị tấn công, như Napoleon từng nói, là đáp trả. Tâm trí tinh tế tuyệt vời của Matilda đã sẵn sàng nghĩ ra một hình phạt thích hợp khác dành tặng quý vị phụ huynh độc địa kia. Kế hoạch giờ đang hình thành trong tâm trí cô bé, tuy nhiên, lại phụ thuộc vào việc liệu con vẹt của Fred có nói hay như Fred quảng cáo hay không.
            Fred là bạn Matilda. Cậu là một anh chàng 6 tuổi nhỏ bé, sống ngay góc đường gần nhà Matilda, và nhiều ngày qua cậu không ngừng kể về chú vẹt nói năng cực hay mà bố cậu tặng cậu.
            Thế là chiều hôm sau, ngay khi Bà Wormwood đánh xe rời nhà đi chơi lô-tô, Matilda liền qua nhà Fred tìm hiểu. Cô gõ cửa và hỏi xem, liệu cậu có đủ tử tế cho cô xem chú chim nổi tiếng nọ hay không. Fred rất vui và dẫn bạn lên phòng ngủ của mình, nơi chú vẹt màu vàng và xanh lơ đẹp đẽ đang đứng trong chiếc lồng cao.
            “Đây nó đây,” Fred chỉ. “Tên nó là Bổ củi.”
            “Kêu nó nói đi,” Matilda bảo.
            “Cậu không kêu nó nói được,” Fred đáp. “Cậu phải kiên nhẫn. Nó sẽ nói khi nó thích.”
            Hai bạn bèn la cà quanh đó, chờ đợi. Thình lình chú vẹt cất tiếng, “Xin chào, xin chào, xin chào.” Giọng y như người. Matilda khen, “Tuyệt quá! Nó còn nói được gì nữa?”
            “Vặn xương răng rắc!” Chú vẹt nói, giả giọng ma cực giống. “Vặn xương răng rắc!”
            “Nó luôn nói thế đấy,” Fred bảo bạn.
            “Nó còn nói được gì nữa?” Matilda hỏi.
            “Vậy thôi,” Fred đáp. “Nhưng vậy là tuyệt lắm rồi, cậu không nghĩ thế sao?”
            “Quá hay luôn,” Matilda hỏi. “Cậu cho tớ mượn nó một đêm nhé?”
            “Không,” Fred đáp. “Dĩ nhiên là không rồi.”
            “Tớ sẽ cho cậu toàn bộ tiền tiêu vặt tuần tới của tớ,” Matilda nói.
             Chuyện đó thì khác. Fred suy nghĩ trong vài giây. “Rồi,” cậu nói, “nếu cậu hứa mai trả nó cho tớ.”
            Matilda loạng choạng trở về căn nhà trống rỗng của mình, hai tay bưng chiếc lồng cao. Phòng ăn nhà cô có cái lò sưởi lớn, và giờ cô bố trí đặt chiếc lồng lên phía trên ống khói, khuất khỏi tầm nhìn. Việc này không dễ, nhưng cuối cùng cô cũng làm xong.
            “Xin chào, xin chào, xin chào!” chú chim nói vọng xuống. “Xin chào, xin chào!”
            “Im mồm, đồ điên!” Matilda bảo, rồi cô đi rửa mớ bồ hóng bám vào tay.
            Tối đó, khi bố, mẹ, anh trai và Matilda đang ăn tối như thường lệ trong phòng khách, trước màn hình ti-vi, thì một giọng nói to và rõ cất lên từ phòng ăn, vọng qua sảnh ngoài. “Xin chào, xin chào, xin chào!” nó nói.
            “Harry!” bà mẹ kêu lên, mặt trắng bệch. “Có ai đó trong nhà! Em nghe có tiếng người!”
            “Con cũng thế!” cậu anh đáp lại. Matilda nhảy dựng lên và tắt bụp ti-vi. “Suỵt! Nghe này!” cô bảo.
            Cả nhà ngừng ăn, ngồi trơ ra đó, nghe ngóng.
             “Xin chào, xin chào, xin chào!” giọng nói lại cất lên.
            “Đấy nó đấy!” cậu anh la lên.
            “Trộm đấy!” bà mẹ rít lên. “Chúng ở trong phòng ăn!”
            “Anh cũng nghĩ thế,” ông bố đáp, ngồi im re.
            “Vậy đi tóm chúng đi, Harry!” bà mẹ rít lên. “Đi và bắt chúng ngay tại trận!’
            Ông bố không động đậy. Ông chẳng có vẻ gì vội lao ra, làm anh hùng cả. Mặt ông xám như tro.
            “Ra tay đi!” bà vợ lại rít. “Chắc chúng đi lùng mấy đồ dùng bằng bạc đấy!”
           Ông chồng bồn chồn dùng khăn ăn lau mồm. “Sao tất cả chúng ta không cùng đi xem sao?” ông bảo.
            “Thì đi,” cậu anh kêu. “Đi nào, mẹ.”
            “Chúng nhất định ở trong phòng ăn,” Matilda thì thào. “Con chắc thế.”
            Bà mẹ vớ cái que cời nơi lò sưởi. Ông bố cầm cây gậy đánh gôn ở góc nhà. Cậu anh túm lấy chiếc đèn bàn, kéo phích cắm ra khỏi ổ điện. Matilda thì nhặt con dao cô đang dùng để cắt thức ăn, và cả bọn bốn người lò dò tiến tới cửa phòng ăn, ông bố đi mãi tận phía sau.
            “Xin chào, xin chào, xin chào!” giọng nói lại cất lên.
            “Lên nào!” Matilda nói, rồi nhào vào phòng ăn, tay khua khoắng con dao. “Chọc tiết chúng!” cô hét lên. “Bọn tao bắt được chúng mày rồi!” Những người khác nhào vào theo cô, tay vung vẩy vũ khí. Rồi họ dừng lại. Họ nhìn quanh. Không ai ở đó cả.
            “Không có ai ở đây,” ông bố nói, giọng nhẹ nhõm.
            “Em nghe thấy mà, Harry!” bà mẹ ré lên, giọng còn run. “Em nghe rõ lắm! Anh cũng vậy mà!”
            “Con chắc mình cũng nghe thấy luôn!” Matilda kêu lên. “Hắn ở đâu đó quanh đây thôi!” Cô bắt đầu tìm kiếm sau ghế xô-pha và sau rèm cửa.
            Rồi giọng nói lại cất lên, lần này nho nhỏ, ma quái, “Vặn xương răng rắc, vặn xương răng rắc,” nó nói.
            Bọn họ tất thảy đều nhảy cả lên, trong đó có Matilda, một diễn viên rất khá. Họ nhìn quanh. Vẫn không có ai ở đó.
            “Ma đấy,” Matilda nói.
            “Trời ơi giúp con với!” bà mẹ la lên, vòng tay kẹp cổ ông chồng.
            “Con biết có ma mà!” Matilda nói. “Có lần con nghe thấy nó ở đây! Căn phòng này bị ma ám rồi! Con nghĩ mọi người biết chuyện đó chứ.”
            “Cứu chúng con với!” bà mẹ ré lên, suýt bóp cổ chồng.
            “Tao ra khỏi đây đây,” ông bố nói, mặt xám chưa từng thấy. Bọn họ tất thảy ùa ra khỏi phòng, đóng sầm cửa lại.
            Chiều hôm sau, Matilda cố lôi chú vẹt quạu quọ, mình dính đầy bồ hóng ra khỏi ống khói và khỏi nhà mình mà không bị ai nhìn thấy. Cô đem nó ra theo cửa sau và ôm nó chạy một mạch sang nhà Fred.
            “Nó có ngoan không?” Fred hỏi cô.
            “Nhà mình chơi với nó vui lắm,” Matilda đáp. “Bố mẹ mình khoái nó kinh khủng.”

No comments:

Post a Comment