ĐÔI TAI KỲ DIỆU
Quay vào hang, chú KLTBTT đặt Sophie ngồi lại trên cái bàn to.
“Cháu có đủ ấm với bộ đồ ngủ ấy không?” Chú ta hỏi. “Cháu không thấy rét run
lên à?”
“Cháu ổn cả,”
Sophie đáp.
“Ta không thể
không nghĩ tới cha mẹ đáng thương của cháu,” chú KLTBTT nói. “Chắc họ đang nhảy
tưng tưng, lùng sục khắp nhà, mồm kêu inh ỏi, ‘Hú òa, hú òa, Sophie đâu rồi?’”
“Giờ cháu chả
có ai,” Sophie đáp. “Cha mẹ mất khi cháu còn nhỏ xíu.”
“Ôi, hạt đậu
nhỏ bé đáng thương!” Chú KLTBTT kêu lên. “Cháu không nhớ họ nhiều lắm chứ?”
“Thật sự thì
không ạ,” Sophie đáp, “vì cháu có biết mặt họ đâu.”
“Cháu khiến
ta buồn quá,” chú KLTBTT vừa nói vừa dụi mắt.
“Đừng buồn,”
Sophie bảo. “Chả ai lo lắng cho cháu nhiều đến thế. Chỗ chú lôi cháu đi là trại
trẻ mồ côi làng. Ở đó chúng cháu đều mồ côi cả.”
“Các cháu là
trẻ mồ côi à?”
“Vâng.”
“Ở đó có bao
nhiêu cháu?”
“Bọn cháu có
10 đứa,” Sophie đáp. “Toàn là con gái.”
“Ở đó có vui
không?” Chú KLTBTT hỏi.
“Cháu ghét nó
lắm,” Sophie đáp. “Quản lý chỗ đó là Bà Clonkers và nếu bà ấy bắt gặp chú vi phạm
cái gì, tỉ như trèo khỏi giường vào buổi tối hay không xếp quần áo lại, thì chú
sẽ bị phạt ngay.”
“Cháu bị phạt
thế nào?”
“Bà ấy nhốt bọn
cháu dưới hầm rượu tối om suốt một ngày một đêm, không cho ăn uống gì cả.”
“Đồ quạ già
đáng ghét!” Chú KLTBTT kêu lên.
“Chỗ ấy khiếp
lắm,” Sophie bảo. “Bọn cháu sợ lắm. Có chuột ở dưới đó. Bọn cháu có thể nghe thấy
chúng bò xung quanh.”
“Đồ sâu bọ bẩn
thỉu!” Chú KLTBTT hét to. “Đó là chuyện kinh khiếp nhất mà ta nghe được suốt
nhiều năm qua! Cháu làm ta buồn quá thể!” Lập tức một giọt nước mắt to có thể đổ
đầy cả xô lăn xuống má chú KLTBTT, rồi rơi tõm xuống nền nhà. Nó tạo thành vũng
nước nhỏ ở đó.
Sophie nhìn
theo, đầy kinh ngạc. Cô nghĩ, đây thật là sinh vật kỳ lạ, đồng bóng. Phút trước
chú ta còn bảo mình đầu đầy ruồi ép, vậy mà phút sau, tim chú ta đã tan chảy vì
mình khi mình cùng đám bạn bị Bà Clonkers nhốt dưới tầng hầm.
“Điều cháu lo,” Sophie nói tiếp, “là phải ở lại cái
nơi ghê rợn này suốt đời. Trại trẻ khiếp thật, nhưng cháu đâu có ở đó mãi, đúng
không?”
“Tất cả là lỗi
tại ta,” chú KLTBTT bảo. “Ta là kẻ bắt cháu đi.” Rồi một giọt nước to tướng nữa
ầng ậng trong mắt chú ta và rơi tõm xuống nền nhà.
“Giờ nghĩ lại,
cháu cho là mình không thực sự ở đây lâu đến thế,” Sophie nói.
“Ta e cháu phải
làm thế thôi,” chú KLTBTT đáp.
“Không, cháu
không ở đây đâu,” Sophie bảo. “Bọn cục súc kia sớm muộn sẽ lùng ra cháu và xơi
cháu trong bữa trà chiều.”
“Ta không bao giờ để điều đó xảy ra,” Chú
KLTBTT đáp.
Trong giây
lát cả hang động lặng yên. Rồi Sophie nói, “Cháu có thể hỏi chú một câu được không?”
Chú KLTBTT lấy
tay chùi mắt, rồi nhìn Sophie với vẻ chăm chú, trầm ngâm. “Bụp luôn đi,” chú ta
đáp.
“Chú có thể bảo
cho cháu biết, tối qua chú làm gì ở làng cháu không? Tại sao chú lại chọt thứ gì
trông như cái kèn dài ấy vào phòng ngủ bọn trẻ nhà Goochey rồi thổi nó?”
“À há!” Chú
KLTBTT kêu lên, thình lình ngồi bật dậy. “Giờ bọn mình ồn ào hơn cái chợ trời rồi
đó!”
“Cả va li chú
xách theo nữa,” Sophie bảo. “Đó là
cái quái quỷ gì vậy?”
Chú KLTBTT ngờ
vực nhìn cô bé con đang ngồi bắt chéo chân trên bàn.
“Cháu đang
đòi ta kể cho nghe những bí mật bự xự đấy,” chú ta đáp. “Bí mật chưa ai từng nghe
thấy bao giờ.”
“Cháu chả bật
mí tí nào đâu,” Sophie nói. “Cháu thề đấy. Mà sao cháu nói cho ai biết được cơ
chứ? Cháu bị kẹt ở đây suốt đời mà.”
“Cháu có thể
nói cho gã khổng lồ khác biết.”
“Không, cháu
không làm thế,” Sophie đáp. “Chú bảo bọn chúng sẽ chén cháu ngay khi thấy cháu
mà.”
“Bọn chúng sẽ
làm thế,” Chú KLTBTT bảo. “Cháu là đậu người, mà đậu người, với khổng lồ, thì
giống hệt dâu tây với cà rem vậy.”
“Nếu chúng
chén cháu ngay khi thấy cháu, thì cháu đâu có thời gian để kể cho chúng nghe điều
gì, đúng không?” Sophie hỏi.
“Cháu không
có thời gian đâu,” Chú KLTBTT đáp.
“Vậy chú bảo,
cháu có thể kể cho ai nghe chứ?”
“Vì ta có đầy
thứ ầm ào,” Chú KLTBTT bảo. “Nếu nghe hết mọi điều ta nói, thì cháu sẽ ù tai mất
thôi.”
“Hãy nói cho
cháu biết chú làm gì trong làng cháu đi,” Sophie bảo. “Cháu hứa chú có thể tin
tưởng cháu đấy.”
“Cháu có chịu
dạy ta cách làm ra con doi[1]
không?” Chú KLTBTT hỏi.
“Ý chú là gì cơ?” Sophie hỏi lại.
“Ta khoái có
doi để cưỡi,” Chú KLTBTT mơ màng đáp. “Ta thích một con doi to béo lộn xộn, rồi
suốt ngày cưỡi nó vào rừng xanh nhặt đám quả mịn màng mọng nước trên cây. Xứ sở
bọn ta sống là một nơi nóng chảy cả mỡ. Chả có gì mọc lên, ngoại trừ đám dưa nuốt-không-trôi.
Ta muốn tới nơi nào đó khác hẳn đây, và vào buổi sớm mai ngồi trên lưng doi đi
nhặt quả mọng.”
Sophie thấy
thật cảm động khi nghe lời nói kỳ lạ này.
“Có lẽ ngày
nào đó bọn cháu sẽ kiếm cho chú một con voi,” cô bé đáp. “Cả quả mọng nữa. Giờ
kể cho cháu nghe chuyện chú làm trong làng cháu đi.”
“Nếu cháu thật
sự muốn biết ta làm gì trong làng mình,” chú KLTBTT bảo, “thì đây, ta thổi giấc
mơ vào phòng bọn trẻ.”
“Thổi giấc mơ á?” Sophie kêu lên. “Ý chú
là sao?”
“Ta là gã khổng
lồ chuyên-thổi-giấc-mơ,” chú KLTBTT đáp. “Khi cả đám khổng lồ tản mát đi khắp
nơi, tìm kiếm đậu người để ăn, thì ta lỉnh tới chỗ khác để thổi giấc mơ vào
phòng bọn trẻ đang ngủ. Những giấc mơ đẹp. Những giấc mộng vàng óng đáng yêu.
Những giấc mơ khiến người nằm mơ có khoảng thời gian vui vẻ.”
“Chờ chút
nào,” Sophie bảo. “Chú lấy đâu ra những giấc mơ ấy?”
“Ta thu thập
chúng,” Chú KLTBTT bảo, vẫy tay về phía hàng hàng lớp lớp chai lọ để trên kệ.
“Ta có ti tỉ chúng.”
“Chú không thể
thu thập giấc mơ được,” Sophie bảo.
“Giấc mơ đâu phải thứ gì đó chú có thể cầm nắm được đâu.”
“Cháu không
bao giờ hiểu được chuyện đó đâu,” chú KLTBTT đáp. “Đó là lý do tại sao ta không
muốn kể cho cháu nghe.”
“Ôi, cháu xin
chú đấy!” Sophie năn nỉ. “Kể đi, cháu sẽ hiểu
mà! Thôi nào! Kể cháu nghe xem chú thu thập giấc mơ thế nào đi! Kể cháu nghe mọi
thứ đi!”
Chú KLTBTT xoay
người ngồi lại cho thật thoải mái, rồi bắt chéo chân. “Giấc mơ,” chú ta bảo,
“là thứ rất huyền bí. Chúng trôi nổi trong không khí hệt như những bong bóng mỏng
manh mờ ảo. Và chúng luôn tìm kiếm những người đang ngủ.”
“Chú có thể
thấy chúng không?” Sophie hỏi.
“Thoạt đầu
thì không.”
“Vậy sao chú
bắt được chúng, nếu không nhìn thấy chúng?” Sophie lại hỏi.
“À há,” chú
KLTBTT đáp. “Giờ sắp tới phần bí mật hắc ám tối tăm đây.”
“Cháu chả bật
mí tí nị nào đâu.”
“Ta tin
cháu,” chú KLTBTT bảo. Chú ta nhắm mắt, ngồi im một chốc, trong khi Sophie
ngóng đợi.
“Giấc mơ,”
chú ta nói, “khi bay vẩn vơ trong không khí buổi đêm, thì tạo ra thứ âm thanh rù
rì nho nhỏ. Nhưng thứ âm thanh rù rì nho nhỏ này êm như nhung, đậu người chả thể
nào nghe được.”
“Chú nghe được
không?” Sophie hỏi.
Chú KLTBTT dựng
đôi tai to như bánh xe tải của mình lên, đôi tai mà giờ chú ta bắt đầu ve vẩy.
Chú ta làm việc này một cách hãnh diện, miệng nở một nụ cười nho nhỏ hãnh diện.
“Cháu thấy thứ này chứ?” chú ta hỏi.
“Sao cháu lại
không thấy cơ chứ?” Sophie đáp lại.
“Với cháu, chúng
trông có vẻ phì nhiêu,” chú KLTBTT bảo, “nhưng cháu phải tin, khi ta bảo rằng
chúng thật sự là đôi tai rất đỗi ngoại thường[2].
Chúng không phải thứ để nhổ vào.”
“Cháu chắc
chúng không phải thứ ấy,” Sophie đáp.
“Chúng cho
phép ta nghe được hết thảy mọi thứ nhỏ nhít loay xoay.”
“Ý chú là chú
có thể nghe thấy thứ mà cháu không nghe thấy ấy hả?” Sophie hỏi.
“Nếu so với
ta, thì cháu điếc như con cá diếc ấy[3]!”
chú KLTBTT kêu lên. “Cháu chỉ nghe thấy những âm thanh to thình thịch với đôi
tai nhỏ xí như hạt bí mà thôi. Nhưng ta nghe được toàn bộ những tiếng thì thầm bí mật của cả thế gian!”
“Chẳng hạn như?”
Sophie hỏi.
“Như ở nước
cháu,” chú ta đáp, “ta nghe được tiếng chân của bọ rùa khi nó tản bộ dọc lá cây.”
“Thật thế ư?” Sophie kêu lên, bắt đầu thấy
ấn tượng.
“Hơn nữa, ta
còn nghe được tiếng chân rất lớn,”
chú KLTBTT nói. “Khi bọ dừa tản bộ dọc lá cây, ta nghe chân nó dậm cà-rầm-cà-rập như tiếng chân bọn khổng lồ
vậy.”
“Trời đất quỷ
thần ơi!” Sophie kêu lên. “Chú còn nghe thấy gì nữa?”
“Ta nghe được
cả tiếng đám kiến nhỏ ríu rít với nhau khi chúng bò trong lòng đất.”
“Ý chú là chú
nghe được kiến nói chuyện ấy hả?”
“Từng từ một,”
chú KLTBTT đáp. “Dù ta không hiểu ngôn thuật[4] của
chúng.”
“Tiếp đi
chú,” Sophie bảo.
“Thỉnh thoảng,
vào những đêm trời quang quẻ,” chú KLTBTT kể tiếp, “nếu ta vung tai đúng hướng,” tới
đây chú ta vung tai dựng đứng cả lên, đến nỗi chúng chĩa thẳng lên trời, “nếu
ta vung tai như thế, và đêm đó trời quang quẻ, thì ta nghe được cả tiếng nhạc xa xăm
từ sao trên trời vẳng lại.”
Sophie chợt thấy một sự rung động kỳ quặc, nhẹ
nhàng lan khắp người. Cô ngồi thật im, chờ đợi nghe thêm.
“Tai chú chính là thứ bảo cho chú biết đêm
qua, cháu đang dòm ra ngoài cửa sổ,” chú KLTBTT bảo.
“Nhưng cháu có gây ra tiếng động nào đâu,”
Sophie đáp.
“Chú nghe tiếng tim cháu đập bên kia đường,”
chú KLTBTT bảo. “To như trống trận ấy.”
“Chú kể tiếp đi,” Sophie nài nỉ. “Tiếp đi
mà.”
“Chú nghe được cả tiếng cây cối, hoa màu.”
“Chúng
có nói chuyện không?” Sophie hỏi.
“Chính xác thì chúng không nói,” chú KLTBTT
đáp. “Nhưng chúng tạo ra tiếng động. Chẳng hạn, nếu chú đang đi, rồi nhặt một
bông hoa xinh lên, nếu chú bẻ gãy cành của nó, thì cái cây sẽ rú lên. Chú có thể
nghe tiếng nó rú, rất rõ là đằng khác.”
“Chú không có ý đó chứ!” Sophie kêu lên.
“Nghe ghê quá!”
“Nó rú lên y như cháu rú lên khi ai đó bẻ rời
tay cháu ra vậy.”
“Thật vậy hả?” Sophie hỏi.
“Cháu nghĩ chú đang chế nổ à?”
“Chuyện đó khó tin quá.”
“Vậy chú dừng ở đây thôi,” chú KLTBTT gay gắt
bảo. “Chú không thích bị gọi là tay phét lác.”
“Ôi không! Cháu không gọi chú là gì cả!”
Sophie kêu lên. “Cháu tin chú mà! Tin thật đấy! Chú kể tiếp đi!”
Chú KLTBTT đưa mắt nhìn cô bé, vẻ khó chịu một
lúc. Sophie đưa mắt nhìn lại, gương mặt tỏa nét cởi mở. “Cháu tin chú mà,” cô
nhẹ nhàng nói.
Cô đã xúc phạm chú ta, cô có thể thấy điều
đó.
“Ta không đời nào đi phét lác với cháu cả,”
chú ta bảo.
“Cháu biết chú không làm thế,” Sophie bảo.
“Nhưng chú phải hiểu là những thứ kinh ngạc đến thế thì khó làm người ta tin
ngay được.”
“Ta hiểu mà,” chú KLTBTT đáp.
“Vậy hãy tha thứ cho cháu và kể tiếp đi mà,”
cô bảo.
Chú ta đợi một lúc nữa, rồi mới kể, “Cây cũng
giống như hoa. Nếu bổ rìu vào thân một cây to, thì ta sẽ nghe thấy âm thanh khủng
khiếp vọng ra từ trái tim cây.”
“Âm thanh thế nào cơ?” Sophie hỏi.
“Âm thanh rên rỉ nhè nhẹ,” chú KLTBTT đáp.
“Giống tiếng ông già rên lên khi sắp chết vậy đó.”
Chú ta ngừng nói. Cái hang lại yên lặng.
“Cây cối tồn tại và lớn lên y như ta và cháu
vậy,” chú ta tiếp tục. “Chúng sống. Hoa màu cũng thế.”
Giờ chú ta ngồi thẳng dậy, tay nắm chặt lại để
ở phía trước. Mặt chú ta bừng sáng, đôi mắt tròn và sáng như hai vì sao.
“Âm thanh ta nghe được thật tuyệt vời và thật
khủng khiếp,” chú ta bảo. “Vài âm thanh cháu sẽ ước mình đừng có nghe! Nhưng một
số thì như âm nhạc kỳ thú vậy!”
Chú ta bừng bừng phấn khích khi nghĩ tới chuyện
ấy. Gương mặt chú thật đẹp trong niềm xúc cảm đó.
“Kể cháu nghe thêm về chuyện ấy đi,” Sophie
nhẹ nhàng bảo.
“Cháu nên nghe bọn chin chít[5]
nói chuyện với nhau!” chú ta kể. “Bọn ấy luôn nói chuyện và chú nghe chúng nói
to hệt như giọng mình nói vậy.”
“Chúng nói gì thế?” Sophie hỏi.
“Chỉ chúng mới biết,” chú ta bảo. “Nhện cũng
nói nhiều. Cháu sẽ không nghĩ thế nhưng bọn nhện là chúa mồm mép đấy. Khi chăng
tơ, chúng hát suốt. Chúng hát còn hay hơn cả chim mòng ca[6] ấy
chứ.”
“Chú còn nghe thấy ai nữa?” Sophie hỏi.
“Một trong số những kẻ buôn chuyện nhiều nhất
là bọn sâu so,[7]” chú KLTBTT bảo.
“Chúng buôn gì thế?”
“Chúng suốt ngày bàn ra tán vào xem ai sẽ
thành canh cánh[8] đẹp nhất. Chúng chỉ buôn
có thế mà thôi.”
“Giờ có giấc mơ nào trôi dạt quanh đây không
hở chú?” Sophie hỏi.
Chú KLTBTT dựng đôi tai theo hướng này hướng
kia, chăm chú nghe ngóng. Rồi chú ta lắc đầu. “Chả có giấc mơ nào quanh đây cả,”
chú ta bảo, “trừ trong chai. Ta có nơi đặc biệt để đi bắt giấc mơ. Chớ chúng ít
khi tới Xứ Khổng lồ lắm.”
“Chú làm sao bắt được chúng?”
“Như cháu bắt canh cánh ấy,” chú KLTBTT đáp.
“Dùng vợt.” Chú ta đứng dậy, băng qua hang tới cái ngách, nơi một cây sào đang
ngả vào tường. Sào dài khoảng 30 foot, có vợt ở đằng đuôi. “Đây là vợt-bắt-giấc-mơ,”
chú ta bảo, một tay nắm cây sào. “Mỗi sáng ta ra ngoài, vợt cho được một
mớ giấc mơ mới để cho vào lọ.”
Đột nhiên, chú ta hình như mất hứng nói chuyện.
“Ta đói bụng rồi,” chú ta bảo. “Giờ ăn tới rồi.”
[1] Nhại ‘elephant’ (voi)
thành ‘elefunt’.
[2] Chú KLTBTT dùng rất nhiều
từ chế, tỉ như ở đây, thay vì dùng ‘extraordinary’ (phi thường) thì chú ta dùng
‘extra-usual’ (tạm dịch là, ngoại thường).
[3] Lại một cụm từ chế khác,
thông thường người Anh dùng ‘deaf as a doorpost/stone’, ở đây chú KLTBTT chế
thành ‘deaf as a dumpling’.
[4] Một từ chế, ‘langwitch’
thay vì ‘language’ (ngôn ngữ).
[5] Nhại ‘mice’ (chuột nhắt)
thành ‘micies’.
[6] Nhại ‘nightingale’ (chim
sơn ca) thành nightingull.
[7] Nhại ‘caterpillar’ (ngài)
thành ‘cattlepiddler’.
[8] Nhại ‘butterfly’ (bươm bướm)
thành ‘butteryfly’.